Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Đọc lại "Bút máu" của Vũ Hạnh

Vũ Hạnh là một một nhà văn mà tôi yêu thích vào thời trước năm 1975. Không chỉ riêng tôi, mà cả gia đình tôi yêu thích, bắt đầu từ ba tôi. Tôi nhớ hồi ấy, gần như hàng tuần ba tôi đều dẫn bọn tôi ra khu trung tâm của Sài Gòn (dùng từ tiếng Anh là downtown ấy), đi dọc đại lộ Nguyễn Huệ, rồi xem hàng quán bán trên đường Lê Lợi, và cuối cùng là vào nhà sách Khai Trí. Tôi vẫn nhớ câu danh ngôn treo như một banner treo ở trên tường ngay giữa nhà sách Khai Trí: "Để lại một gia tài, không bằng để cho con một quyển sách"; nếu câu này mà đúng (và tôi nghĩ là đúng!) thì tất cả bọn tôi đều quá giàu có bởi số sách vở ba tôi để lại cho bọn tôi là rất nhiều, có thể tạo thành một thư viện không quá nhỏ. Thói quen mua sách và đọc sách của tôi chính là bắt nguồn từ ấy.

Quay trở lại Vũ Hạnh, ông có tài về ngôn ngữ, viết rất lôi cuốn, và nội dung cũng gây ấn tượng. Riêng tôi ấn tượng nhất về ông là vì 2 cuốn sách. Một là cuốn Người Việt cao quý, được viết dưới bút hiệu giả làm một người Ý viết về VN. Một cuốn sách mà lúc ấy tôi đọc thì rất xúc động, nhưng sau này cũng đồng ý với những người phê phán nó, cho rằng một người Việt mà lại lấy bút hiệu nước ngoài để viết ca ngợi chính dân tộc mình thì quả là ... kỳ, có thể nâng lên thành vấn đề đạo đức. Đồng thời nó cũng cho thấy một cái gì đó về tính cách dân tộc Việt Nam: chỉ thích khen và tự khen chứ không chấp nhận sự phê phán và tinh thần tự phê phán. Trong khi ở các nước khác thì người ta viết Người Mỹ xấu xí rồi Người Trung Quốc xấu xí, mà Mỹ với TQ thì toàn là cường quốc cả, mà VN lại đi viết Người Việt cao quý là làm sao? Nghĩ lại, thấy cũng đúng thật!

Cuốn thứ hai của Vũ Hạnh là một tập truyện ngắn với nhiều câu truyện nho nhỏ ở trong, nhưng tôi ấn tượng nhất là truyện Bút máu. Đó là một câu truyện viết với lối văn Liêu Trai chí dị, kinh dị và hoang đường, nhưng ẩn ý thì rất rõ. Nhà văn đưa ra thông điệp rằng những người cầm bút mà viết không đúng sự thật thì sẽ gây ra tác hại không kể xiết, tạo ra đầy rẫy nghiệp chướng, gây hại cho người khác vô số kể. Nên câu truyện mới có tựa là Bút máu, một cái tựa nghe là đã thấy ghê sợ rồi. Sau này, khi biết Vũ Hạnh là một nhà văn theo cách mạng từ thời trước năm 1975 (nói theo ngôn ngữ của thời ấy thì ông là Việt Cộng nằm vùng), thì tôi hiểu thâm ý của VH là phê phán sự thiếu tự do báo chí của thời ấy, và đưa ra thông điệp cho các cây bút của miền Nam là khi viết thì phải có lương tri và dũng khí của người cầm bút, để luôn luôn nói lên sự thật và bảo vệ lẽ phải. Một thông điệp hay và quan trọng đối với những nước nghèo và lạc hậu như Việt Nam, mà có lẽ thông điệp ấy đến giờ vẫn còn giá trị.

Sau năm 1975, tiếc thay, tôi không còn được thấy những tác phẩm dưới bút danh Vũ Hạnh nữa. Chẳng rõ ông bây giờ làm gì, ở đâu, và có luôn giữ được thông điệp mà chính ông đã đưa ra trong truyện ngắn "Bút máu" của mình hay không.

Xin các bạn cùng thưởng thức lại truyện ngắn "Bút máu" của Vũ Hạnh dưới đây.
-------------------
http://music.vietfun.com/trview.php?ID=1019&cat=18


Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đàọ Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.
    Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngàỵ Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòạ Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
    - Máu người tanh quá!
    Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
    Ðến nhà, lạy cậu thưa lên:
    - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theọ Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
    Người cậu giận lắm, bảo rằng:
    - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu naỵ Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!
    Lương Sinh cúi thưa:
    - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa ngườị Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổị
    Cậu nói:
    - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với màỵ Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữạ
    Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngàỵ Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậụ Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lờị
    Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đờị Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗị Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủỵ
    Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lương muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơị Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cườị Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữạ Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cườị Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùạ Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
    Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
    Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ
    Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
    Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.
    Rồi bẻ cành hoa kẹp vàọ Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theọ Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồị Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
    - Có người ám hại tiểu thư.
    Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lờị Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
    Ðám đông có tiếng thì thàọ
    - Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấỵ
    - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồị
    - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!
    Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen nàỵ Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
    Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở tróị Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
    - Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu naỵ
    Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậụ Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
    Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
    Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêụ Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
    Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng.
    Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửạ Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mớị Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máụ Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầỵ Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong ngườị Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nàọ Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
    Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
    - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôị Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạỏ Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậỵ Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào!
    Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xạ Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâụ Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.
    Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:
    - Bác khóc thương thân quyến nào vậỷ
    Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
    - Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôị
    Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?"
    Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
    - Ông từ đâu mà đến đâỷ
    - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôị Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
    Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:
    - Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ nàỵ Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâụ Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nhọ Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồị Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi!
    Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏị
    - Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
    Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
    - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọạ Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồị Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!".
    Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp:
    -Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!
    Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theọ
    Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

7 nhận xét:

  1. Nữ sĩ Phương Anh ơi, từ sau 1975 Vũ Hạnh chẳng viết được cái gì cả, chẳng hiểu tại sao... Cách đây dăm sáu năm Lãng tử nhân danh khoa trưởng Văn mời ông và một hai người bạn về An Giang giao lưu với SV... Nhạt nhẽo lắm, vì ông bây giờ chỉ còn "ăn mày dĩ vãng" thôi, vâng, chỉ còn "bút máu" thôi.

    Nữ sĩ cung cấp văn bản BÚT MÁU cho ban đọc là hợp thời lắm.(Vũ Hạnh cũng tặng xã giao cho mình một bản photo của Bút máu khi tống tiễn ông quay lại Sài Gòn...)

    Trả lờiXóa
  2. Xin cô Phương Anh giúp cho em trả lời 1 hỏi tiếng anh . Xin cảm ơn cô nhiều .
    Will we never use up natural resources ?
    vậy muốn có câu trả lời rằng chúng ta sẽ sử dụng hết tài nguyên , vì nó không phải là vô tận.
    vậy câu trả lời là Yes, we will là đúng hay sai ?
    Xin cảm ơn cô nhiếu

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Xin lỗi bạn, hôm nay mới chú ý mà trả lời câu này (hôm trước tôi đọc lướt qua, thấy không liên quan đến nội dung bài viết nên không chú ý):

      Câu trả lời của bạn là đúng. Tuy nhiên sẽ ít ai nói Yes, we will như thế, nghe có vẻ trả lời trong sách ngữ pháp. Bình thường người ta có thể nói: of course we will, hoặc I'm sure we will. Đại khái thế.

      Xóa
  3. Xin đăng lại đây nhận xét của một người bạn gửi đến tôi qua mail:
    ------------------
    Chào cô PA sáng nay tôi bận đi dự Lễ Ngày Y Khoa - mới về đọc Bút Máu của Vũ Hạnh - và đọc lời bình của Lãng Tử - quả đúng vậy VH như đã lùi sâu vào dĩ vãng - nhưng dùng từ Ăn Mày Dĩ Vãng là quá tội cho thầy ấy. Nếu biết địa chỉ của thầy ấy tôi sẽ viết thư thăm hỏi. Có lẽ bây giờ thầy ấy đã ngộ rồi.

    Trả lờiXóa
  4. Quí vị đọc" Lạc đường'' của Đào Hiếu sẽ biết thêm về V.H mà Đào Hiếu sửa là Vô Hạnh. Nhà thơ Bùi Minh Quốc có thơ rằng: Bút máu khô máu mình rồi.Bút quay ngọn thọc máu người kiếm ăn.Văn chương đao búa vện vằn.Vẻ mặt cao quí để săn đồng bào. Đôi lúc tôi cũng nghĩ: Không biết bây giờ ông ấy ra sao rồi nhỉ? Vì sau75 một thời gian, những đồng hương Quảng nam như Vũ đức Sao Biển, Cung Văn, Tường Linh vẫn xuất hiện. Riêng V.H...!?

    Trả lờiXóa
  5. Cám ơn chị PA,tôi cũng có nghe tên tác giả từ lâu nhưng chưa đọc nên cũng ít quan tâm, không bàn về tác giả ở đây mà thấy truyện ngắn này rất hay,sâu sắc.Đã và sẽ còn có nhiều nhà văn khấu đầu tạ tội với nhân dân để sám hối,như Chế Lan Viên đả làm .Ngòi bút cũng là vũ khí nên nó không thể tránh được máu.Chúc chị khỏe,xin chị mang về vườn nhà.

    Trả lờiXóa
  6. Vũ Hạnh, ở một số trước tác chính luận, từng tỏ ra là một người có tài biện luận, nhiều khi hấp dẫn, do cái duyên lý sự của người xứ Quảng. Nhưng có một bộ mặt khác của con người nhà văn Vũ Hạnh mà với thời gian người ta đã phát hiện ra. Cũng như tác phẩm NVCQ,là mọi sự dối trá xuất bản (mạo danh để bán chạy) dối trá về tri thức (VH chẳng biết bao lăm những ngôn ngữ mà ông đem ra so sánh "rất tài tình" với tiếng Việt, cách so sánh mà chỉ một số nhà ngôn ngữ cỡ Mario Pei (120 ngôn ngữ) mới dám dè dặt nói ra. Những người Việt Nam được thơ ngây được ve vuốt bới thứ lòng tự phụ rẻ tiền chỉ là một cách che lấp mặc cảm nhược tiểu, tự hào về cái mà mình không có. Kết thúc cuộc đời và sự nghiệp của VH là cả bạn bè lẫn kẻ thù đều coi thường nhân cách thiếu lương thiện của ông. Hình ảnh Bùi Giáng, người đồng hương của ông lại được mọi người yêu thương và nhớ mãi.

    Trả lờiXóa

Đây là blog cá nhân, mong các bạn chỉ đưa những nhận xét ôn hoà, không cực đoan, không kích động hận thù, và tôn trọng sự khác biệt, để không gây rắc rối, bất lợi cho chủ blog.