Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

But only God can make a tree (1)


Gã khờ cũng biết làm thơ
Cây xanh lá thắm xin chờ Chúa thôi!

Hai câu lục bát chú thích cho bức hình trên đây là bản dịch ... con cóc của tôi cho hai câu cuối của bài thơ Trees nổi tiếng lẫy lừng của nhả thơ Joyce Kilmer cách đây đúng 101 năm. Nguyên văn bài thơ mà bất kỳ một đứa trẻ em Mỹ nào cũng biết ấy như sau:

I THINK that I shall never see
A poem lovely as a tree.
  
A tree whose hungry mouth is prest
Against the sweet earth's flowing breast;
  
A tree that looks at God all day,         5
And lifts her leafy arms to pray;
  
A tree that may in summer wear
A nest of robins in her hair;
  
Upon whose bosom snow has lain;
Who intimately lives with rain.  10
  
Poems are made by fools like me,
But only God can make a tree.

 (Nguồn: http://www.bartleby.com/104/119.html)

Thực ra, không phải ai cũng thích bài thơ này. Đã có nhiều bài phân tích, phê bình những chỗ nhược  của bài thơ, như các ẩn dụ trong bài không hợp lý, sáo mòn, đôi khi mâu thuẫn với nhau; nhịp điệu của bài thơ nhàm chán, giống như vè, thiếu sáng tạo, vv. Nhưng dù ai có nói thì nói, bài thơ Trees vẫn cứ là một bài thơ được yêu thích và luôn xuất hiện trong các tuyển tập (anthology) giới thiệu các tác giả, tác phẩm của nền văn học Mỹ. Có lẽ chính cái nhịp điệu nhàm chán của bài thơ lại là đặc điểm giúp cho nó trở nên phổ biến và được ưa thích đến như vậy: Nó đơn giản, không cầu kỳ, và vì vậy rất dễ nhớ. Đặc biệt, nó có hai câu đầu và hai câu cuối rất ấn tượng dù có thể nói là hơi sáo mòn và ngoa ngữ - ừ, thì biết làm sao được, có phải ai cũng thích những gì cầu kỳ rắc rối đâu. Đơn giản một chút cho nó dễ hiểu, cho đời bớt mệt mà. Và, cũng giống như nhiều con người bình thường, bình dân khác, tôi rất thích bài thơ Trees, dù đã đọc không thiếu một bài phân tích nào, kể cả - hoặc đúng hơn là đặc biệt là - những bài phê phán nó, và hoàn toàn đồng ý với những lời phân tích ấy.

Nhưng có một bài thơ khác của VN, cũng nói về cây, cũng làm tôi thích đến độ "ám ảnh" không kém bài thơ Trees vừa nêu (tôi thuộc cả hai bài này - well, thuộc một phần - vào cùng một khoảng thời gian, lúc tôi học cỡ lớp 8, lớp 9 trường Gia Long trước năm 1975), mà lại chẳng hề đơn giản hay sáo mòn một chút nào cả. Thực ra, trên blog này tôi đã nhắc đến bài thơ đó nhiều lần, nhiều đến độ chắc chắn người bạn thân nào của tôi và hay đọc những gì tôi viết ra đều biết bài thơ ấy. Ngặt một nỗi là giờ đây tôi không còn nhớ tên và tác giả của bài thơ, và cũng không sao tìm được trên mạng, chỉ biết nó là thơ của một tác giả miền Nam trước năm 1975. Để tôi chép lại cho các bạn đọc nhé, tôi nghĩ các bạn cũng sẽ thích nó:

Anh còn yêu vô cùng
Những bóng cây bên đường
Mỗi bóng cây như mỗi đời chúng ta
Có bao giờ giống nhau
Từ những cây thẳng đứng vươn cao
Đến những cây cằn cỗi
Những hoa lá rì rào
Những cây đong sầu muôn nỗi ....

Và hôm nay trên đường xa gió bụi
Anh chợt thấy bên đường
Một cây khô vừa chết
Với cành héo khẳng khiu
Mang theo nỗi cô liêu ngàn đời không hết ....

Bài thơ có một cái gì buồn hiu hắt phải không các bạn? Chính vì vậy mà tôi thích nó, ngoài chuyện tôi còn thích nó hình ảnh và ý tưởng lạ lùng, giọng thơ hơi trúc trắc để chở cái tâm trạng khắc khoải bất an của tác giả. Nhưng thích nhất là nó so sánh cuộc đời thăng trầm của mỗi người như những bóng cây (mỗi bóng cây như mỗi đời chúng ta/có bao giờ giống nhau). Tôi tự hỏi, bài hát "Một đời người một rừng cây" phải chăng cũng bị ảnh hưởng bởi bài thơ này, hay là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thế nhỉ? Nhưng dù là trùng hợp hay bị ảnh hưởng thì tôi vẫn nhận ra điều này: Hình tượng trees (bóng cây, thân cây, cái cây ...) là một hình tượng rất gần gũi trong tâm trí của mọi người, không chỉ ở VN mà còn trên khắp thế giới. Sự gần gũi này hẳn phải nói lên một điều gì đấy. Thì chẳng phải trước khi con người trở nên văn minh, tiến bộ và ... phá hoại thiên nhiên như ngày nay, chính cây và rừng đã gắn bó với con người hết sức mật thiết đó sao. Rừng/cây cung cấp cho ta cả nơi ăn chốn ở, lại cung cấp cả cái ăn, và còn bảo vệ môi trường sống của con người, giúp lọc không khí, ngăn chặn sói mòn, lũ lụt, lại cũng là nguồn năng lượng để sưởi ấm, nấu chín thức ăn .... Chẳng phải trong buổi hoang sơ ấy, nếu không có rừng thì con người đã bị tước hết nguồn sống trên trái đất hay sao?

Vâng, tôi bị mê hoặc bởi cây cối, cả những cây cổ thụ hùng vĩ cao vút đến tận trời xanh lần những loài cỏ dại mọc thấp lè tè sát mặt đất, bị bao bàn chân người đạp lên nhưng vẫn tồn tại dai dẳng không bao giờ có thể  trị dứt. Đi đâu tôi cũng nhìn và chụp hình cây, và ghi nhận được những quan sát thú vị. Tôi nghĩ, cách một quốc gia đối xử với cây cối trong phạm vi quốc gia của mình, cách người ta bố trí cây xanh và các loại cây người ta trồng trong đô thị hiện đại, luôn nói lên một điều gì đó về tính cách dân tộc ấy hoặc thời đại đã tạo ra nó. Chẳng hạn như khi đi sang thành phố Bangalore (Ấn Độ) cách đây vài năm, tôi vô cùng ấn tượng với những cây cổ thụ khắp nơi, thân cây to như cột nhà, đen xì và khúc khuỷu, với những tán là xanh um, rễ nổi lên trên mặt đất như những con trăn lớn, và đôi khi có cả cành cây nghiêng nằm rạp sát mặt đất. Những cây như thế có thể thấy ở khắp nơi, không chỉ ở những vùng ngoại ô xa thành phố, mà ngay cả trong trung tâm thành phố cũng rất nhiều. Và thỉnh thoảng dưới gốc những cây cổ thụ lớn lại thấy có một miếu nhỏ thờ thần, thì Ấn Độ vốn lắm thần mà lại. Hình ảnh ấy làm cho tôi nhớ câu "cây đa cậy thần thần cậy cây đa", và tự hỏi, phải chăng tục thờ thần của người VN chính là một biểu hiện của tín ngưỡng đa thần của người Ấn Độ?

Tôi nhớ có một hôm được chở đi mua sắm ở một khu trung tâm thương mại nhưng tôi không có nhu cầu mua nên đã được thả cùng một số người khác đồng cảnh ngộ tại một công viên to rộng gần đó. Có lẽ gọi là công viên cũng không hẳn đúng vì nó chỉ là một bãi đất trống không có tường rào, tương tự những bãi đất làng, nơi trẻ con thả diều, đá banh, tụ họp vui chơi.... Hôm ấy trời rất nóng (mà ở Ấn Độ có bao giờ trời không rất nóng không nhỉ? :-) ), nhưng ở công viên thì không khí dịu hẳn. Dưới mỗi bóng cây lại thấy có một anh/chú bán dạo với chiếc xe đẩy trên có ít hàng hóa, họ bán nước uống giải khát, đồ ăn vặt, vật lưu niệm, vv, với các anh chàng Ấn Độ lè phè đang ngồi tán gẫu, dường như không phải họ đang buôn bán mà đang nghỉ ngơi hưởng nhàn, quan tâm đến cuộc tán gẫu của mình hơn là quan tâm đến khách hàng, mà khách hàng thì cũng vô cùng thưa thớt.

Trong cái tạm gọi là công viên mở ấy không chỉ có rất nhiều cây cổ thụ, nhiều người bán hàng rong, mà còn có cả ... những chú bò đứng đủng đỉnh nhìn trời nhìn đất, và một bầy quạ đen rất đông, cũng với kiểu cách đủng đỉnh như những con bò và những anh/chú bán hàng rong xung quanh. Ai cũng an nhiên, tự tại, ai cũng có chỗ đứng của mình dưới ánh mặt trời (theo nghĩa đen), không ai tranh giành, vội vã, không ai lấn chiếm hay xua đuổi ai. Một khung cảnh nhàn nhã, thanh bình, và tạo ra một ấn tượng lạ lùng khó quên đối với tôi - một người đến từ một đất nước chiến tranh liên miên, ra đường mọi người lúc nào cũng hối hả bon chen giành giựt và chen lấn.

Nhìn cảnh tượng công viên hôm ấy, tự nhiên tôi nhận ra cái gọi là đặc tính "hiếu sinh" của nền văn hóa Ấn Độ: Không cần nói nhiều, chẳng cần lý luận, hiếu sinh là như thế đó: cây cỏ, chim muông, người và thú cùng chung sống với nhau trên một mảnh đất hiền lành, ai cũng có chỗ của mình và ai cũng tôn trọng quyền được sống của người khác. Cần gì phải quảng bá niềm tin hay đạo pháp làm gì, hãy cứ sống điều mình tin, thì đó chính là cách quảng bá hay nhất, có phải không, các bạn nhỉ?

(còn tiếp)


Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

60 năm Geneva, nghĩ về cuộc hội ngộ vẫn còn dang dở

Hôm nay là ngày 20/7. "Hai mươi tháng bảy, toàn dân Nam nhớ thương" .... Mỗi lần đến ngày này, tôi lại nhớ đến câu hát ấy, được lấy trong một bài hát về "ngày quốc hận" dưới thời VNCH mà giờ đây hình như không còn ai biết đến nữa. Vâng, 20/7 được xem là ngày quốc hận vì cách đây đúng 60 năm, một cuộc chia lìa vĩ đại trong lịch sử VN đã được định đoạt, kéo theo 21 năm chiến tranh triền miên với bao nhiêu máu xương đổ xuống hai miền để đất nước thống nhất vào năm 75.

Còn nhỏ khi học sử dưới thời VNCH thì tôi nghe người ta lên án miền Bắc cộng sản vì đã ký vào Hiệp định chia đôi đất nước, đưa chủ nghĩa cộng sản vào VN gây cảnh chia lìa và chiến tranh tang tóc, để cả nước phải chịu cảnh "đêm sông Hương nhung nhớ, ngày Cửu Long mơ ... mơ một ngày Hồng Hà góp hội trùng dương" như trong lời một bài hát của TCS. Đối với người miền Nam lúc ấy, nước Mỹ là một đồng minh giúp VNCH xây dựng một chế độ tự do dân chủ tại một nửa đất nước, nền dân chủ ấy tất nhiên là còn rất non trẻ và vô cùng khó khăn (vì sự quấy phá liên tục không ngừng nghỉ bằng vũ lực của Việt Cộng với sự hỗ trợ của miền Bắc, với sự ra đời của Mặt trận giải phóng miền Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng Lao Động VN ngay từ năm 1960 khi Mỹ chưa hề trực tiếp đặt chân vào miền Nam). Chỉ mới 21 năm, nhưng  VNCH cũng đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận và có một số thành tựu về kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục y tế ....

Nhưng sau ngày "giải phóng" thì HĐ Geneva đã xuất hiện với những ý nghĩa khác hẳn: Ta chiến thắng vẻ vang, Mỹ thay chân Pháp tiếp tục xâm lược, ta bắt đầu cuộc chiến tranh thần thánh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đánh đổ hoàn toàn chế độ ngụy quyền SG .... (trong đó tất nhiên có cha tôi và rất nhiều người dân ở miền Nam, vì làm sao có thể khác?)

Quay lại giai đoạn 1954-1955. Cha mẹ tôi, lúc ấy mới vừa lấy nhau được ít lâu, một người 18 tuổi còn người kia 22 tuổi, sau lưng bỏ lại quê hương, gia đình và chòm xóm để cùng dòng người di cư từ miền Bắc để vào Nam trong chuyến hành trình được đặt tên là "Passage to freedom" - Đường đến tự do. Cái tên mà mãi sau này đọc tài liệu nước ngoài về cuộc chiến VN tôi mới được biết. Cuộc ra đi được so sánh với những người Mỹ đầu tiên rời bỏ nước Anh để đi tìm tự do ở vùng đất xa lạ mà sau này trở thành nước Mỹ. Với tôi, nó giống cuộc Exodus để tìm về miền đất hứa của dân Do Thái hơn. Vì cuộc hành trình đó cũng rất dài và gian lao để xứng đáng gọi là cuộc Exodus của người Việt mà có lẽ đến tận bây giờ vẫn chưa hoàn tất.

Lý do cha mẹ tôi vào Nam mà ông bà nội tôi không đi là vì ông bà còn một người con trai - anh ruột của cha tôi - đi theo Việt Minh và mất tích trong thời kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, ông nội tôi muốn ở lại để may ra có thể tìm được bác tôi nếu bác còn sống và lưu lạc ở đâu đó, hoặc nếu đã qua đời thì cũng tìm lại nắm xương đem về chôn cất, để người chết được mồ yên mả đẹp và người sống cũng yên lòng khi thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ.

Quyết định như vậy, nhưng ông tôi lại khuyến khích cha mẹ tôi đi vào Nam sinh sống. Lúc ấy, cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu diễn ra ở nhiều nơi, trong đó có Nam Định là nơi ông bà nội tôi sinh sống. Ngay từ trước năm 75 thỉnh thoảng khi nói chuyện về miền Bắc tôi vẫn nhớ bố tôi nhắc đến ông Trường Chinh, kể rằng ông TC đã về nói chuyện ở làng trong thời gian cải cách ruộng đất, nhớ bố tôi kể chuyện (hình như) chính cha mẹ của ông TC cũng bị mang ra đấu tố, nhớ cả câu chuyện về thói quen của những cán bộ VM là dùng đũa hai đầu, một đầu để ăn còn đầu  kia dùng để gắp cho người khác cho hợp vệ sinh. Những mẩu chuyện tôi nghe thấy lạ lùng nhưng không quan tâm vì không nghĩ nó có bao giờ ảnh hưởng đến cuộc đời mình. Nhưng có ai đoán được tương lai!

Cuộc cải cách ruộng đất ấy không làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của ông bà nội tôi vì ông tôi nghèo không có nhiều ruộng, lại có con trai (là bác tôi) theo Việt Minh nên được xem là có công với cách mạng. Dù vậy, ông tôi vẫn cảm thấy chế độ mới có lẽ không phù hợp cho đứa con trai duy nhất còn lại của ông là cha tôi, một anh học trò chân trắng (ông bà tôi tuy làm ruộng nhưng lại muốn cho bố tôi thoát cảnh làm nông dân nên đã cố gắng cho cha tôi lên Hà Nội ăn học). Mẹ tôi là người Hà Nội cũng chỉ biết buôn bán, và chắc chắn là khó sống với chế độ mới, vì quan điểm tư bản là kẻ thù, là phản động, chỉ có lao động chân tay mới là vinh quang, là chân chính, và bần cố nông mới là giai cấp của cách mạng.

Những kẻ thuộc thành phần tiểu tư sản như cha mẹ tôi (dù khi lấy mẹ tôi thì cha tôi chẳng có một xu dính túi, chỉ có một chút học hành và sức lao động mong có thể bán cho kẻ nào muốn mua!) thì là thành phần ăn bám, cần phải được cải tạo để sống trong chế độ cách mạng, mà biết có thể cải tạo được chăng! Đi vào Nam, thì may ra còn có cơ hội tìm được nghề sinh sống. Đó là suy nghĩ của ông nội tôi và cha mẹ tôi trong những tính toán rời bỏ quê hương để vào Nam, mà tôi đã nghe được khi cha mẹ tôi nói chuyện với chú (chồng của cô út) sau năm 75 khi miền Bắc đã chiến thắng trong cuộc chiến.

Một lý do khác nữa mà ông tôi khuyến khích cha mẹ tôi vào Nam là vì gia đình tôi là người Công giáo. Lúc ấy, chủ trương vô thần của chính quyền cộng sản thời ấy cộng với sự ác cảm không giấu diếm của cộng sản đối với người Công giáo khiến cho rất nhiều người không muốn ở lại quê hương với chính quyền  cộng sản, dù với họ cuộc ra đi là một cuộc phiêu lưu vô định vào một nơi xa lạ chẳng biết tương lai sẽ đưa họ về đâu. Một quyết định xé lòng, nhưng dường như đối với những người như cha mẹ tôi (và nhiều người công giáo khác) thì không còn lựa chọn nào khác. Sau này, một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của chế độ mới mà tôi đọc được là cuốn Bão biển của Chu Văn, cũng nói về cuộc sống của người Công giáo ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giờ tôi không còn nhớ rõ nội dung nhưng nhớ chắc chắn hình ảnh người Công giáo dưới mắt của tác giả (và tất nhiên nó phản ánh quan điểm chính thống của chính quyền "cách mạng") là vô cùng xấu xí và dĩ nhiên là rất phản động.

Quay trở lại cuộc di cư. Sự chia cắt đau thương của ngày ấy ấy tôi biết được qua những lời mẹ tôi kể về những ngày giằng co để cuối cùng đi đến quyết định di cư, trong đó bố tôi thì nửa muốn đi - vì thanh niên trai tráng, lại cũng có chút chữ nghĩa, cũng muốn tìm cho mình một cơ hội nhiều hơn là ở lại nhà quê với cái nhìn không thiện cảm của chế độ mới và phải tự cải tạo bằng lao động để trở thành một con người chân chính! - nửa lại bịn rịn vì thương ông bà nội tôi, chỉ có hai người con trai thì một bác đã mất mà bố tôi lại bỏ đi vào Nam. Chính vì sự dùng dằng này mà bố mẹ tôi chờ mãi đến gần hết giai đoạn 300 ngày cho phép di chuyển giữa hai miền - Bắc vào Nam, Nam ra Bắc - mới quyết định vào (bố mẹ tôi vào Nam năm 1955), và chuyến đi từ quê Nam Định ra Hải Phòng để lên tàu vào Nam gặp biết bao nhiêu trở ngại vì chính quyền Việt Minh lúc ấy không muốn bị mất dân nên cản trở bằng nhiều cách.

Những điều ấy mẹ tôi hay kể cho bọn tôi nghe; bọn tôi nghe thì thấy lạ lẫm nhưng không xúc động vì mình không trải nghiệm. Nhưng điều mà tôi cảm nhận được rất rõ ràng là trong mắt bố mẹ tôi, mà nhất là bố tôi, thì làng quê miền Bắc là một cái gì đó hết sức thơ mộng, với những đêm trăng sáng mọi người quây quần ở ngoài sân hóng gió và kể chuyện cổ tích hoặc chuyện ma, hay cây đa giếng nước ở đầu làng .... Còn với mẹ tôi thì ký ức về miền Bắc là một Hà Nội vô cùng thanh lịch, thiên nhiên thì vô cùng đẹp đẽ với mưa phùn vào dịp Tết, với hoa đào đỏ thắm, với với rất nhiều hồ, nào là hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu, hồ Tây, đương nhiên là phải có hồ Hoàn Kiếm với những cây liễu rủ lơ thơ mà mãi sau này tôi mới thấy lần đầu tiên vào cuối năm 1990 khi ra Hà Nội để nhận học bổng đi học ở Úc vào đầu năm 91.

(Nhân nhắc đến việc này cũng tôi xin lạc đề để viết mấy dòng cám ơn nước Úc, chính phủ Úc và nhân dân Úc đã tài trợ cho một đứa con nhà nghèo, lại thêm lý lịch đen như tôi cũng có cơ hội để đi ra bên ngoài ngắm nhìn thế giới, mà lần đầu tiên chỉ đi đến Thái Lan thôi là tôi đã thấy thật shock và vô cùng tủi nhục - nhưng đó là một câu chuyện khác.)

Sự thương nhớ của cha tôi còn thể hiện qua việc lưu giữ cẩn thận mấy tấm bưu thiếp in sẵn với một ít chỗ trống để điền vào (giống như bài tập làm văn của lớp một) mà cô ruột tôi gửi vào cho gia đình tôi trong thời gian 2 bên vẫn còn được quyền liên lạc - dù rất hạn chế - trong thời gian chờ "tổng tuyển cử" vào năm 1956. Tất nhiên cuộc tổng tuyển cử ấy không bao giờ xảy ra như mọi người đã biết, và lòng thương nhớ khôn nguôi ấy tôi vẫn chẳng thể nào hiểu được cho đến mãi sau này chính tôi cũng đã trải qua khi lịch sử lặp lại vào năm 1975.

Vâng, ngày 29/4 năm 1975 thì người chị cả và anh kế của tôi cũng cỡ tuổi 18 đôi mươi (chính xác thì chị tôi 20 còn anh tôi chỉ mới 17) lại dắt díu nhau đi "di tản" (à, ai còn trẻ chưa biết thì cần nhớ "di cư" là chuyện của năm 54, còn "di tản" là việc của năm 75). Nhưng không giống năm 54 còn có 300 ngày để bàn bạc, cân nhắc và đi đến quyết định, lần này gia đình tôi và những người khác nữa chẳng có ngày nào mà chỉ là một quyết định tức thời trong "cuộc tháo chạy tán loạn" năm ấy. Anh chị tôi ra đi, để lại cha mẹ tôi và 6 đứa con còn lại mà tôi là đứa lớn nhất, năm ấy chưa đầy 15 tuổi, và một trời thương nhớ lại bắt đầu, bây giờ đã chuyển sang đến thế hệ của tôi.

Tôi vẫn nhớ, thực ra ban đầu cha tôi đã đồng ý cả gia đình sẽ cùng đi. Trước đó, theo kế hoạch đã bàn bạc sẵn thì mẹ tôi đã sắp xếp đồ đạc vào túi xách để đem đi di tản. Tôi nhớ mẹ tôi đã chuẩn bị cho anh chị em tôi mỗi người một túi vải với mấy bộ quần áo, một ít lương khô, một ít tiền và 2 cây vàng, phòng hờ  lỡ có đánh nhau to mà lạc mất nhau thì mỗi người cũng còn có thể sống sót ít lâu. Trong nhà tôi có hai chiếc xe gắn máy, một chiếc Vespa Sprint do cha tôi chạy và chiếc xe Honda PC do chị tôi chạy. Kế hoạch của cha tôi là chị tôi chở anh tôi ra cảng SG trước, rồi quay về đón tôi và đứa em kế, còn cha tôi thì đi chiếc xe Vespa chở mấy đứa nhỏ và mẹ tôi chừng vài vòng là hết.

Lúc ấy khoảng gần 5 giờ chiều, cha tôi lấy chiếc Vespa Sprint đi một vòng để xem chỗ tàu đậu và nghe ngóng tình hình, bỗng trở về và nói: Ở ngoài đó hỗn loạn lắm, đi ra ngoài đường lúc này vô cùng nguy hiểm, đạn pháo khắp nơi, không biết sống chết thế nào. Thôi, không đi đâu hết, có chết thì cùng ở lại chết với nhau thôi. Đúng ngay lúc ấy thì chị tôi về đón tôi sau khi đã bỏ anh tôi ở cảng SG. Tôi nhớ mình đã ngồi lên yên xe (chiếc xe Honda PC nhỏ nhắn thời ấy đang được xem là rất mốt, phù hợp với các cô thiếu nữ) nhưng rồi cha tôi đã gọi giật lại, bảo tôi xuống xe và bảo chị tôi ra đón anh tôi về nhà. Chị tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy tôi xuống xe, trân trối nhìn tôi, rồi chị quay sang nhìn cha tôi, hơi gật đầu rồi quay xe đi.

Tôi vẫn nhớ mãi cái hình ảnh cuối cùng ấy: Mặt chị căng thẳng, như hơi đanh lại, tóc dài bay bay khi phóng xe đi, và ngay lúc ấy một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi nhưng tôi không dám nói với ai, rằng chắc chắn là chị tôi và anh tôi sẽ quyết định đi luôn chứ không quay lại nữa đâu. Và tôi đã đúng. Để sau ngày 30/4, cứ mỗi lần thấy một đồ vật gì của chị tôi bỏ lại - những quần áo, tập vở, số sách, ghi chép, hình như có cả tập thơ chép tay, thơ của chị tôi và thơ của những tác giả mà chị tôi thích, thì tôi lại thấy lòng quặn lại, và nhớ hình ảnh chị tôi chiều hôm ấy.

Quyết định thay đổi từ ra đi thành ở lại của cha tôi diễn ra trong tích tắc, chỉ trong thời gian khoảng chừng 1 tiếng đồng hồ, và mẹ tôi cũng rất ngỡ ngàng nhưng không nói gì. Rồi liền sau đó là một cuộc sống mới với tất cả mọi giá trị hoàn toàn đảo lộn đã ập đến. Sau này cuộc sống khó khăn quá, thỉnh thoảng khi nhớ lại thì mẹ tôi lại trách cha tôi về cái quyết định chớp nhoáng vào lúc ấy, và tỏ ra không hiểu vì sao ông làm như thế. Cha tôi không bao giờ nói gì về việc này, nên tôi chẳng rõ lý do gì khiến cha tôi có cái quyết định đó, và ông có bao giờ cảm thấy hối tiếc hay không. Nhưng khi nói chuyện riêng với tôi thì mẹ tôi quả quyết cha tôi đã quyết định ở lại vì nghĩ đến ông nội tôi còn sống ở miền Bắc, hẳn là không muốn vĩnh viễn rời xa cha mình vì như thế là bất hiếu (bà nội tôi đã mất không lâu sau khi gia đình tôi di cư vào Nam, và cái tin bà mất cũng làm cho cha tôi vô cùng đau đớn). Và những trải nghiệm của bản thân tôi với sự ra đi của chị tôi đã giúp tôi hoàn toàn hiểu và thông cảm với quyết định lúc ấy của cha tôi.

Cuộc chia ly 21 năm của gia đình (lớn) của tôi sau năm 1975 đã có một kết cục tạm gọi là đẹp. Khoảng đầu năm 1976 chú tôi (chồng của cô út ở miền Bắc) đã đưa ông nội tôi vào Nam trên chuyến xe lửa Bắc Nam để thăm gia đình tôi lúc ấy đang cảm thấy rất lo lắng với cuộc sống mới. Cuộc gặp gỡ sau hơn 20 năm của hai cha con diễn ra đầy mừng tủi, ông nội tôi rất vui khi thấy đứa con trai duy nhất (vì người con trai đầu đã hy sinh) giờ đây đã có một bầy con đông đúc, với 5 người con trai (mà trước đó khi nói về ông tôi ở miền Bắc thì cha tôi lại tự hào nói với những người bà con trong họ: họ Vũ của ông nội tôi "con độc cháu đàn"), 3 cô con gái. Tất nhiên là còn thiếu hai người con đầu của cha mẹ tôi đã đi di tản mà lúc ấy vẫn còn chưa có tin tức.

Ông tôi rất vui khi nhìn thấy đám cháu chưa bao giờ biết mặt, bố tôi thì khỏi phải nói rồi, chỉ có mẹ tôi (và tôi, đứa con gái lớn lúc ấy vì chị cả tôi đã đi) là hơi vất vả vì ông tôi vào nên khách khứa liên miên, lại thêm phải lo cho ông ăn ở sinh hoạt. Rất lạ là thằng em út của tôi dù mới gặp ông lần đầu đã rất quyến luyến ông, lúc nào cũng lẩn quẩn bên ông như ông cháu đã ở với nhau từ lâu lắm. Cha tôi muốn đón ông vào SG sinh sống nhưng ông quyết định trở về Nam Định, bởi vì ông không quen ở thành phố nên cảm thấy rất xa lạ, nhớ ruộng đồng chòm xóm. Và điều quan trọng nhất là vì ông tôi sau này đã tái hôn với bà sau, có thêm cô con gái bằng tuổi đứa em út của tôi, và ông muốn trở về với bà và cô út (sau) vì biết cuộc sống ở SG không hợp với mọi người.

Cuộc hội ngộ năm 76 của gia đình tôi dù cảm động vẫn có những điều chưa trọn vẹn. Anh chị tôi vẫn còn "mất tích" chưa có tin tức gì (mãi mấy năm sau chị tôi mới gửi thư về, lại là một chuyện ly kỳ khác mà một lúc nào đấy tôi cũng sẽ phải kể lại), nên mỗi lần nhắc đến thì ai cũng đau lòng, chẳng biết mọi người sống chết ra sao. Cha tôi dường như có nỗi đau không thể chia sẻ với ai được, đặc biệt là với mẹ tôi, rằng ông đã phải buộc phải lựa chọn giữa cha mình (ông nội tôi) và tương lai cả gia đình và vợ con của chính mình, để cuối cùng cha tôi đã chọn ông nội tôi. Còn ông nội tôi thì dường như cũng không hài lòng lắm với việc cha tôi để cho 2 đứa con đầu đi di tản, nhưng ông cũng không bao giờ nói ra. Những cuộc trao đổi vẫn còn né tránh chuyện chính trị, ai cũng cố tránh không gợi ra về cuộc chiến lâu dài đẫm máu mà hai bên chĩa súng bắn vào nhau (nhà tôi thì không có cảnh này vì ông nội tôi chỉ có mỗi một mình cha tôi, nhưng nhiều bà con khác thì có), không nhắc đến sự sụp đổ của chính quyền SG, dù thỉnh thoảng vô tình vẫn để lộ ra quan điểm chính trị mà một bên nghe thì rất khó chịu nhưng phải nén lại.

Dù sao thì tình cảm gia đình cũng là nét chính của cuộc hội ngộ, và một tháng trời ông tôi ở SG quả là đáng giá cho cả hai phía, đặc biệt là vì lúc ấy gia đình tôi vẫn còn chút ít của cải đã tích lũy trước năm 75, chưa phải trải qua cảnh nuôi heo, nuôi gà vịt, làm miến dong ngay trong căn nhà 2 tầng ở mặt tiền đường lớn (đường CMT8) ở Quận Tân Bình, vốn được thiết kế theo kiểu nhà đô thị hiện đại chứ không phải để nuôi heo hay nuôi gà vịt (đây cũng là một chuyện dài mà tôi sẽ kể vào dịp khác). Và đáng giá hơn nữa là chuyến đi ấy của ông nội tôi vào thăm cha tôi là cuộc gặp mặt duy nhất giữa hai cha con sau 21 năm ròng, vì sau đó vài năm vào đầu thập niên 80, giữa lúc VN đang thiếu gạo, đói kém nhất (dù đang tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH) thì ông tôi đã mất, và cha con không bao giờ còn gặp mặt nhau nữa.

Nhưng ngay cả khi ông mất cha tôi cũng chẳng dám về Nam Định chịu tang (vì hồi ấy vẫn còn sợ địa phương ngoài ấy kỳ thị, trả thù "tội di cư vào Nam", mà điều này là có thật, vì có những người bà con xa tôi của tôi khi về Bắc đã bị lôi thôi với chính quyền địa phương vì cho rằng họ là CIA hoặc phản động về móc nối ...), chỉ có bác ruột tức chị của bố tôi là phụ nữ không bị nghi có liên can đến chính trị là dám về thôi. Khi về, bác tôi có nói rằng ông bà nội có để lại cho bố tôi một chiếc mâm đồng làm của gia bảo, hiện vẫn còn ở nhà cô út (cô ở lại miền Bắc với ông bà) nhưng bác không dám mang về (vì mọi hàng hóa mang theo người đều phải khai báo và có giấy tờ chứng minh lằng nhằng), khi nào bố tôi có dịp ra Bắc thăm họ hàng thì sẽ nhận. Nhưng cái mâm ấy tôi chưa bao giờ được thấy vì đến năm 91, bắt đầu mở cửa và thể chế bắt đầu có những nhận thức lại thì bố tôi mất vì ung thư phổi. Vì thế, vật "gia bảo" ấy không còn người nhận, hẳn là cô tôi đã giữ thay cho bố tôi luôn rồi, chẳng biết nó có còn được giữ hay đã bán đi trong những năm thiếu gạo ở cả hai miền.

Có một chi tiết rất cảm động mà tôi không thể không kể. Năm 1976 khi vào Nam, ông nội tôi chỉ có một món quà. Ông gói nó kỹ trong một chiếc khăn nhỏ và đưa cho bố tôi. Đó là chiếc huân chương chiến thắng hạng ba mà bác tôi (người đã hy sinh trong chiến tranh chống Pháp) được truy tặng vào năm 1958, cùng với 2 thứ giấy tờ kèm theo: Một tờ giấy chứng nhận truy tặng huân chương cho bác tôi, và một tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ cấp cho ông tôi là cha của liệt sĩ. Mãi tận sau này, mỗi khi mở tủ đựng giấy tờ của cha tôi thì tôi lại thấy cái hộp giấy nhỏ màu đỏ thẫm đựng tấm huy chương ấy để riêng một chỗ trong tủ.





Ông tôi đã cất công đem vào Nam cho cha tôi những thứ ấy để cha tôi có thể khai vào lý lịch, tin rằng nó có thể giúp được cho cha tôi lúc ấy khỏi bị những kỳ thị hoặc trừng phạt nếu có vì đã can tội di cư vào Nam và theo chân đế quốc, làm việc trong hệ thống hành chính của "ngụy quyền", và cũng có thể giúp cho bọn tôi dễ dàng hơn trong khi đi học hoặc xin việc sau này. Có một điều lạ là mặc dù cha tôi vẫn nhắc đến việc này một cách cảm động và trân trọng, nhưng trong lý lịch của cha tôi và sau này là của anh em tôi thì chi tiết này chưa bao giờ được khai vào. Tôi không bao giờ hỏi, cũng chẳng bao giờ quan tâm, thậm chí trong lòng còn thầm ủng hộ là cha tôi đã không tận dụng cái "công trạng" của người khác ấy. Dù lúc ấy chỉ mới 16, 17 tuổi, không nói được thành lời nhưng tôi cũng cảm thấy việc dựa vào lý lịch, vào thành tích của người thân là thiếu tự trọng - mỗi người phải có trách nhiệm với chính những gì mình làm và với những lựa chọn về quan điểm của mình.

Mãi đến khi cha tôi mất vào năm 91 và tôi không còn có dịp nào để nghe cha tôi nói về những gì đã diễn ra trong lòng ông lúc ấy, tôi mới thấy hối tiếc là tại sao hồi ấy mình không đủ trưởng thành để dám hỏi ông và nghe ông tâm sự. Và tôi cũng có một chút tò mò, nếu như trong lý lịch của cha tôi và anh em tôi có khai tên ông bác liệt sĩ thì số phận của chúng tôi có thay đổi chút nào không nhỉ, và đổi thay ấy sẽ theo hướng tốt lên hay xấu đi?

Đã 60 năm rồi. Rất nhiều nhân chứng đã không còn, vật chứng cũng thất lạc không còn giữ được bao nhiêu. Cuộc sống đã trôi qua, ý nghĩa của hội nghị Geneva đối với VN và tình hình chính trị thế giới đã được phân tích đi, phân tích lại nhiều lần. Năm nay trên báo chí lề phải cũng có một bài phân tích khá dài của ông Vũ Khoan (à, lại họ Vũ của làng Vũ Đại nhà tôi!) về những bài học cần rút ra về hiệp định Geneva. Có một số điểm đã được nhìn nhận lại cho chính xác hơn, ví dụ như theo một bài viết nhân kỷ niệm 40 năm Geneva tức cách đây 20 năm mà tôi mới đọc được thì Geneva là thắng lợi vẻ vang của ta, thì nay Geneva chỉ còn là cuộc chơi của những nước lớn trên bàn cờ chính trị mà VN chỉ là một con tốt. Không sai, nhưng rõ ràng là vẫn còn rất nhiều góc khuất cần được bạch hóa phân tích kỹ hơn ở mọi khía cạnh.

Câu hỏi lớn nhất cho người VN hiện nay theo tôi là: Bản chất của cuộc chiến tranh VN, kéo dài từ thời chống Pháp đến tận năm 1975 và tốn không biết bao nhiêu xương máu của cả hai miền, đó là cuộc chiến gì thế, và nó có cần được tiến hành không? Giả sử nếu Đảng CSVN - với sự ủng hộ của quốc tế vô sản, đặc biệt là 2 đồng chí Liên Xô và TQ - không lãnh đạo cuộc chiến tranh "thần thánh" để đuổi Pháp và giành độc quyền lãnh đạo đất nước cho đến tận bây giờ, thì VN không thể có được độc lập và thống nhất ư?  Không phải thế. Vậy VN có độc lập sớm hơn các nước trong khu vực một chút nào chăng, khi mình phải chiến tranh triền miên để dành độc lập trong khi các nước ấy chẳng phải tốn chút xương máu nào để giành độc lập như VN? Cũng không. Rất tình cờ, hôm qua tôi vừa có một cuộc tranh luận nảy lửa đến độ đã tuyên bố cắt đứt tình bạn với một người mà cho đến giờ trong thâm tâm tôi vẫn xem là một người bạn quý - trừ sự khác biệt trong nhìn nhận về cuộc chiến tranh ấy. Lại thêm một sự chia cắt xé lòng về một câu chuyện đã quá cũ, đã tròn một hoa giáp 60 năm mà vẫn còn khả năng gây chia rẽ đối với người Việt.

Câu trả lời là gì, và tại sao, tại sao, tại sao cho đến tận bây giờ lòng người VN vẫn còn những hố sâu dường như không bao giờ vượt qua được? Tôi không có câu trả lời chung cho tất cả mọi người, và cũng không có câu trả lời chắc chắn cho riêng tôi. Tôi chỉ biết, việc quan trọng nhất hiện nay của VN là thống nhất lòng người, là cùng nhau xác định một con đường đi lên cho đất nước và cùng nhau quyết tâm thực hiện, xóa đi những hận thù, hờn oán của cuộc chiến oan nghiệt đó. Nhưng để làm được điều này chắc chắn là không dễ dàng, nếu sự thật vẫn còn bị bưng bít, nếu một trong hai bên hoặc cả hai đều từ chối nhìn vào và phân tích những sai lầm của phía mình và chân thành nhận lỗi - cả bên thắng lẫn bên thua, nhưng nhất là bên thắng - và nếu bên thắng vẫn cứ tiếp tục tự ngợi ca chính nghĩa của mình và mạt sát bên thua với những thông tin bị cắt xén cho đúng quan điểm của bên thắng cuộc, nếu hai bên chỉ chăm chăm moi móc cái xấu của nhau ra để so đọ xem ai thắng ai thua, thì chắc chắn cuộc trùng phùng của năm 1975 không thể nào là cuộc hội ngộ vẹn toàn. Có lẽ đó là bài học lớn nhất mà mọi người VN đều cần phải học.

Tự nhiên tôi nhớ đến lời hát da diết ấy của TCS: Việt Nam ơi, còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau? Chẳng lẽ 60 năm rồi sau ngày chia ly vĩ đại năm ấy, đến bây giờ chúng ta vẫn chưa có được câu trả lời hay sao?

Và cũng nhớ đến Phạm Duy với bài hát VN, VN mà nhạc sĩ đã từng giải thích: Tôi đặt bài hát là VN, VN vì chúng ta có 2 đến nước VN. Phải chăng bài hát ấy chứa trong nó câu trả lời mà PD đã từng mong muốn suốt bao năm: VN không đòi xương máu, VN kêu gọi thương nhau .... Phải thế không, người VN ơi?
---------
Một vài tư liệu cho bài viết:
1. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam VN. http://www.hepza.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/thong-tin-tuyen-truyen;jsessionid=C420E12FE24E67971EA1F1E94834BC5F?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&p_p_col_id=column-right&p_p_col_pos=3&p_p_col_count=7&_EXT_ARTICLEVIEW_groupId=13025&_EXT_ARTICLEVIEW_articleId=242291&_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0&_EXT_ARTICLEVIEW_redirect=%2Fweb%2Fguest%2Fhome

Trích:

Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15, trên cơ sở nhận định bối cảnh quốc tế, phân tích tình hình trong nước đã xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng: khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân. Dưới ánh sáng đường lối đúng đắn của Đảng đề ra, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng bùng lên mạnh mẽ và lan rộng ra toàn miền Nam thành cao trào “Đồng khởi” (1959 – 1960), thực chất là những cuộc khởi nghĩa từng phần của nhân dân để giành quyền làm chủ ở từng địa phương thuộc vùng nông thôn miền núi và đồng bằng. 

Nhân dân ta đã giành quyền làm chủ với các mức độ khác nhau: ở Nam Bộ 1.100/1.296 xã với 4,5 triệu dân; ở Khu 5 có 4.440/4.700 thôn với 2 triệu dân. Cuộc “Đồng khởi” của nhân dân ta đã giáng một đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, tác động mạnh mẽ và làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày 20/12/1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được chính thức thành lập. Đó là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của nhân dân ta, là sự kiện ghi nhận, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam.

2. Bài học từ Hiệp định Geneva 1954. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/geneva-accords-1954-essence-n-lessons-gm-07192014103843.html



Trích: 
Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?

Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng.

Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi.

Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.

Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.

Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?
 
Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó!

Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.

Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam.


3. Video tư liệu về cuộc di cư năm 1954. https://www.youtube.com/watch?v=Spo56PM7BdQ

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

GS Trần Quốc Vượng viết về vua Gia Long

GS TRẦN QUỐC VƯỢNG – MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG


Kính gởi Ban Biên tập Khoahocnet,


Đây là một tham luận của Cố GS Trần Quóc Vượng viết cho một hội thảo về vua Gia Long tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996. Do liên quan đến quan điểm chính trị nên hội thảo này không tổ chức được, và bài viết này cho đến nay được đăng lần nào.

Nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam rất thích bài viết này, nhưng rất tiếc chuyên luận này chưa hề được công bố.


Bản thân tôi đã sưu tập được bài viết này từ hơn 15 năm và ấp ủ nó được đăng chính thức để lưu trữ, nay xin gởi Khoahocnet. Nếu Khoahocnet đăng tải thì chắc chắn đây là lần đầu tiên được công bố.


Xin cảm ơn Ban Biên tập.


Nguyễn Anh Huy
* * *
 GS TRẦN QUỐC VƯỢNG – MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG

* PHẦN MỘT
0.1. Tôi không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945).
 
Tôi đã nói và viết tản mạn nhiều vấn đề về xứ Đàng Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.

0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5 (1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một sự “xét lại” về mặt sử học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống của Việt Nam, thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là:

- Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.
- Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.
- Và trong các vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng (1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !

1.0. Nay theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.

1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.

1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:

- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.

- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.

1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.

Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).

1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.

1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles đâu !

Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).

1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.

1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn ? Đó là một “lập trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).

1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi, quá lâu rồi !

* PHẦN HAI
01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.

01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:
Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài !
Nghĩa là:
Văn không sông núi, không cao diệu,
Người chẳng phong sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:
Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…

Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.

Thế mà đã có kẻ dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !
01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩlàm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.

01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…

01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.

02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng.

02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua !”.

Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ?

Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !

02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):
Lạy trời cho cả gió lên,
Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
                   Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra !

                   Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.

02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:
Thôi ! Thôi ! Thôi ! Việc đã rồi !
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta !
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !

02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại !

Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.

Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung ?

Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !

03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:

03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).

03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh Thịnh.

Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình ! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô !

Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.

Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là tuyệt ! Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học (psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy chứ, phải không anh ?

Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.

03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép:

Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…

Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.

03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như dân, bất nhân như lính”.

Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:

03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam văn học sử yếu của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú” (và do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.

03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời trung học Pháp thuộc).

Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).

03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh rể  – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu” theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.

Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và UBND xã.

Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi được chiêu đãi một bữa bia “đã đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương !

03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.

Thật là lạ ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.

03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta !

Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không !, vua Gia Long nói tiếp: - Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết !

Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).
  
* LỜI TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của NGUYỄN ÁNH ?

Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học chính tông.

Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.

Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.
                                                        Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)
                                                                           Mùa thu tháng Tám, 1996
Kính nộp,
GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)
(1) Có nhà Việt Nam học ở Liên Xô (cũ) còn xem vai trò Gia Long như vai trò của Pi-e đại đế nước Nga xưa nữa kia. Thật là “quá đáng”, nhưng theo tôi, Quang Trung cũng không hề là nhà cải cách vĩ đại của Việt Nam.
(2) Bình Định Vương Lê Lợi.
(3) Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

Phải chăng Marx chống lại tự do báo chí?

Câu hỏi trong tựa của entry này không phải của tôi, mà là một phần tựa gốc của bài báo ngắn bằng tiếng Anh cách đây gần 2 năm của tác giả Brendan O'Neill đăng trên tờ The Telegraph của Anh. Có thể đọc toàn bài ở đây: http://blogs.telegraph.co.uk/news/brendanoneill2/100191832/marx-hated-press-freedom-er-i-dont-think-so-he-was-its-most-passionate-champion/.

Vì đang quan tâm đến tự do báo chí, đặc biệt là từ đầu tháng 5, ngày báo chí thế giới, tình cờ tìm được mấy bài viết của chính Karl Marx viết về tự do báo chí (mà tôi đã giới thiệu một chút trên blog này) nên dù đang bận nhưng tôi cũng phải bỏ chút thời gian ngồi đọc và viết tóm tắt để lưu lại cho mình và chia sẻ với các bạn. Vậy thì đây, tóm tắt những điểm đáng lưu ý về bài báo.

Theo tác giả, ai cho rằng Marx ghét tự do báo chí thì người ấy quả là dốt nát về lịch sử. Không những không ghét, Marx còn là người ủng hộ tự do báo chí một cách hết sức nhiệt thành. Ông đã từng thú nhận rằng tự do báo chí là điều kiện căn bản mà nếu không có nó thì con người không thể tồn tại một cách đầy đủ, hoàn thiện và thỏa mãn.Ông cũng tỏ ra kinh ngạc khi thấy có một số người có thể hưởng thụ cuộc sống cho dù điều kiện sống của họ hoàn toàn không có tự do báo chí. (Xem đoạn trích tiến Anh bên dưới.)

Marx confessed his love for press freedom: "I feel that its existence is essential, that it is something which I need, without which my nature can have no full, satisfied, complete existence." He marvelled at the ability of some people, particularly those in authority, to "enjoy a complete existence even in the absence of any freedom of the press".

Tất nhiên, tự do báo chí không phải là hoàn hảo. Cũng có những điều bất tiện và bất lợi, nhưng theo Marx thì "ta không thể đòi hưởng những ưu điểm của một nền báo chí tự do mà lại không chấp nhận những điều bất tiện của nó. Không ai có thể hái được hoa hồng mà không chạm phải gai!" (Trích dẫn phía dưới.)

Of course the press is not perfect, Marx said – but "you cannot enjoy the advantages of a free press without putting up with its inconveniences. You cannot pluck the rose without its thorns!" Those wise words should be borne in mind by all those who now want to "clean up" the press and get rid of the bad bits of it. 

Bài báo kết thúc bằng phần trích dẫn dài những gì Marx đã viết về tự do báo chí, đoạn mà tôi cũng đã từng trích trong bài giới thiệu của tôi trên blog này. Tác giả cho rằng đoạn trích ấy là lập luận hay nhất và mạnh mẽ nhất đã từng được viết ra để ủng hộ tự do báo chí.

Xin trích lại:

Báo chí tự do là con mắt có mặt ở khắp nơi để giám sát linh hồn của mỗi dân tộc, là hiện thân của niềm tin  vào chính mình của dân tộc ấy, là mối liên kết mạnh mẽ kết nối mỗi cá nhân với nhà nước và với thế giới, là hiện thân của một nền văn hóa có khả năng biến đổi cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh trí tuệ và lý tưởng hóa hình thức vật chất của nó. Đó là lời thú tội thẳng thắn của một dân tộc với chính mình, và ai cũng biết sức mạnh cứu rỗi của việc thú tội là như thế nào rồi. Đó cũng là tấm gương tinh thần trong đó một dân tộc có thể nhìn thấy chính mình, và việc tự xem xét chính mình điều kiện đầu tiên của sự khôn ngoan. Đó là linh hồn của nhà nước, có thể được đưa vào dưới mỗi mái nhà, và rẻ hơn so với khí than. Nó toàn diện, có mặt ở mọi nơi, và toàn trí. Nó là thế giới lý tưởng luôn tuôn trào từ thế giới thực và chảy trở lại vào trong thế giới đó với những của cải thiêng liêng to lớn hơn nữa làm đổi mới tâm hồn của thế giới này.

Nếu vậy, thì tự bao giờ và tại sao, tất cả các nước cộng sản đều không có tự do báo chí? Ở các nước này, hoàn toàn không có báo chí tư nhân, nhà báo phải chịu kiểm soát chặt chẽ, việc cấp thẻ khá khó khăn, hạn chế, từng bài báo phải chịu kiểm duyệt - mà đa số đã được tự kiểm duyệt trước đó - và tổng biên tập của mọi tờ báo đều phải là đảng viên (nếu thông tin của tôi là đúng), chịu nhiều ràng buộc vì tư cách đảng viên của mình (phải tuyệt đối phục tùng cấp trên và trung thành với tổ chức).

Tại sao, tại sao? Xin dành câu trả lời cho những người có trách nhiệm. Và thêm một câu hỏi trong danh sách những câu hỏi lớn không lời đáp của chúng ta, "thuở đất nước của Hùng Vương có Đảng ...".

Biết đến bao giờ mới có câu trả lời đây?

Chút thoáng xuân hương ...

"Chút thoáng xuân hương" là tựa một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng tôi muốn dùng nó để đặt cho entry này, vì không hiểu sao lại thấy nó rất phù hợp. Ừ thì Đà Lạt có Hồ Xuân Hương, mà Xuân Hương lại là một nữ thi sĩ rất nổi tiếng của VN. Mà mỗi lần đến Đà Lạt thì cũng chỉ hiểu được chút thoáng vẻ đẹp của nó, dù chỉ là một chút một thoáng thì cũng đã đủ để ngẩn ngơ rồi. Vâng, tôi đã đến thăm Đà Lạt nhiều lần nên không còn sự háo hức của lần đầu, nhưng quả thật lần này đi xong thì lại thấy mình vẫn còn quá nhiều thứ để tìm hiểu về thành phố mộng mơ này, và sẽ còn trở lại với nó thêm nhiều lần nữa..

Nhưng thôi, một entry như thế này thì không cần viết dài dòng, mà hãy để cho những tấm hình tự nó nói lên câu chuyện về Đà Lạt. Chút thoáng xuân hương ...



.





Ở sân bay Liên Khương



Đường về Osaka Resort, gần Hồ Tuyền Lâm

Đây, Osaka Resort


Thông xanh ở khắp nơi

Bên Hồ Xuân Hương

Màu chủ đạo của cafe Thanh Thủy

Buổi chiều trên Hồ Xuân Hương

Ngắm mây vàng trên đầu dốc

Dalat Nights. quán cafe ở gần Osaka Review, được xem là nơi có view đẹp nhất thành phố

Đà Lạt buổi chiều tà
Hoàng hôn
Buổi tối ở khu nhà nghỉ
Ấm cúng ánh đèn vàng

Dưới kia là thành phố ...
Buổi sáng trên thành phố ngàn thông


Vườn hồng
Hoa bìm bìm