Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

"Chiến tranh là ..." - Bài thơ dịch cho ngày 30/4

Hôm nay là ngày 30/4, một ngày lễ - public holiday. Kỳ nghỉ dài 5 ngày còn thêm một ngày nữa mới chấm dứt. Tôi có nhiều việc muốn làm trong kỳ nghỉ này, nhưng không thể nào tập trung được; mấy ngày nay tôi cứ đọc lan man, rồi trao đổi lan man với bạn bè, với người thân, về một sự kiện lịch sử quá lớn với toàn dân tộc, và không bao giờ quên được với những người đã trải qua.

Có thời gian nhưng không thể tập trung, tôi thường viết blog. Tôi đang muốn viết tiếp về thơ, cũng đang có sẵn vài bài do thân hữu gửi về những vấn đề tôi quan tâm và cần đăng lên. Thực ra tôi đang viết lời dẫn cho một entry mới của bạn bè, nhưng viết nửa chừng đành bỏ dở. Tôi cảm thấy với tâm trạng của tôi ngày hôm nay mà viết lời dẫn thì chắc chắn sẽ gượng ép. Vì tâm hồn của tôi không ở trong bài viết ấy và những vấn đề ấy - nó vẫn còn lẩn quẩn đâu đó quanh cuộc chiến đã kết thúc đến gần 40 năm, tức đã gần hai thế hệ rồi.

Lúc ấy, tôi chỉ là đứa trẻ con chưa đủ tuổi để nói rằng mình thực sự có liên quan đến cuộc chiến; ngày nay con trai tôi nếu lấy vợ sớm thì tôi đã có thể có cháu nội. Vậy tại sao tôi vẫn chưa thể quên, và rất nhiều người khác cũng không quên?

Cuộc chiến ấy có oan khốc lắm không nhỉ? Và những người đã tham gia trực tiếp trong cuộc chiến, những người còn sống hay những người đã chết, họ nghĩ gì về bên thắng và về bên thua? Tôi chỉ biết tôi đã nghe một người thân kể, vào buổi trưa 30/4/75 hôm ấy, khi nghe tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn Minh, những người lính cộng hòa vừa buông súng vừa cởi áo lính để đầu hàng, vừa khóc và gào lên: Chúng tôi chiến đấu cho ai và cho cái gì đây?

Tôi không muốn bàn chuyện ai đúng ai sai, ai hào hùng ai hèn nhát - những chuyện ấy chẳng còn ý nghĩa gì nữa, và cũng chẳng bao giờ có ý nghĩa đối với tôi. Với tư cách một người đã trải qua thời chinh chiến ấy, tôi chỉ thấy đau và thương cho thân phận con người, thân phận của người dân của một đất nước chiến tranh liên miên và mãi sau 38 năm rồi mà hòa bình trong lòng người vẫn chưa hiện hữu.

Chiến tranh, chiến tranh ... Ai cũng mong chiến tranh chấm dứt, vì hậu quả của nó thật khốc liệt cho cả bên thua lẫn bên thắng. Và cuộc chiến nào cũng sẽ phải chấm dứt, nhưng chiến tranh chỉ chấm dứt khi có bên thua. Có khi là cả hai bên cùng thua một bên thứ ba nào đó. Có khi là hai bên mỗi bên chịu thua một chút để đi đến sự thỏa hiệp và ngừng bắn. Nhưng thường thì một cuộc chiến chỉ chấm dứt khi có một bên hoàn toàn không chịu nổi và phải buông súng, đầu hàng.

Một bên buông súng, để hòa bình có thể đến. Để chấm dứt chiến tranh, để ngưng cảnh thịt rơi máu đổ. Vậy thì, ai đáng được cám ơn, được vinh danh: người không tiếc máu xương của đồng loại, cứ hy sinh đến người lính - người dân - cuối cùng, hay người biết dừng lại và chấp nhận mọi sự nhục nhã và chịu nằm trong quyền sinh sát của kẻ chiến thắng, để xương máu ngừng rơi?

Tôi không phải là lính, nên không biết câu trả lời của người lính là thế nào. Nhưng với tư cách của người dân, tôi cám ơn người đã biết dừng lại, biết xem xương máu của đồng loại là quan trọng hơn danh dự của mình. Biết chọn hòa bình chứ không chọn chiến thắng bằng máu của người khác. "Nhất tướng công thành vạn cốt khô".

Vâng, xin tặng các bạn bài thơ này, và ngả mũ chào tất cả những người đã nằm xuống, cả hai phía. Xin cám ơn tất cả những người đã đóng góp phần mình dù bằng bất cứ cách nào để có được hòa bình ngày hôm nay.

Chiến tranh là ...

Chiến tranh là chết chóc
Chiến tranh là tan hoang 
Chiến tranh là lửa khói
Chiến tranh là đạn bom
Chiến tranh là thống khổ
Chiến tranh là lầm than
Chiến tranh là nước mắt
Chiến tranh là súng gươm
Chiến tranh là xương máu
Chiến tranh là phân ly
Chiến tranh là hỗn loạn
Chiến tranh là nổ tung
Chiến tranh là tàn phá
Chiến tranh là đau thương
Chiến tranh là chém giết
Chiến tranh là nồi cơm
Chiến tranh …còn gì nữa?
Những điều ghê gớm hơn!

Nhưng sẽ có một bên
Bên ni hay bên nớ
Chẳng còn muốn biết thêm
Vì thấy là quá đủ
Bèn buông súng, đầu hàng

Và rồi hòa bình đến.

(Phương Anh dịch)

War Means ...

War Means death
War Means destruction
War Means fire
War Means bombing
War Means sorrow
War Means turmoil
War Means tears
War Means guns
War Means blood
War Means confusion
War Means explosions
War Means mutilation
War Means sickness
War Means killing
War Means occupation
War Means loss
And lots more

But after one side
Or the other side
Has finally had enough
And lays down their arms
To surrender and give up

War Means Peace
Brie Carter

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Lan man tháng tư và những dòng thơ sáu chữ

Tặng các bạn của tôi, nhất là những người mà trong cuộc chiến đau thương ấy số phận đã đặt đứng ở bên kia chiến tuyến đối với tôi.
----------
Entry rất dài này tôi đã bắt đầu viết từ hôm qua mà đến giờ, bước sang ngày thứ hai của kỳ nghỉ lễ 30/4-1/5 dài 5 ngày tôi vẫn chưa viết xong. Vì viết xong lại xóa, xóa xong lại viết, trở đi trở lại nhiều lần. Chưa có bao giờ tôi viết blog lại khó khăn đến thế.

Ban đầu, thực ra tôi chỉ định viết về thơ sáu chữ thôi, là loại thơ mà tôi rất thích, để nối tiếp chủ đề "Thơ lục ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn" mà tôi đã đăng lên cách đây hai ngày. Vì viết về thơ sáu chữ nên tôi định bụng thế nào cũng giới thiệu bài thơ "lục ngôn tứ tuyệt" (ừ thì cũng cho tôi dùng tiếng Hán chút cho nó ... oách chứ) vào năm tôi 15 tuổi, một bài dở òm nhưng tôi viết với đầy cảm xúc, vào những ngày tháng tư cách đây 38 năm. Vâng, bài thơ sáu chữ đầu tiên mà có lẽ cũng là duy nhất của tôi đã được làm vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, vào tháng tư năm 1975.

Tất nhiên bài thơ ấy ắt phải có liên quan đến cuộc chiến, dù rất gián tiếp. Nên trong những ngày này, khi những ký ức của cuộc chiến tranh ấy ùa về một cách vô thức, thì tôi không thể không nhớ và nghĩ về cuộc chiến, dù ký ức ấy chẳng vui gì. Vì vậy, bài viết của tôi ban đầu chỉ muốn nói về thơ, nhưng cuối cùng lại trở thành một bài lan man  những ký ức tản mạn về tháng tư và về cuộc chiến đau thương, dù trước đó tôi đã tự nhủ rằng năm nay tôi sẽ không viết vể tháng tư nữa. Vì điều gì muốn nói có lẽ tôi cũng đã nói hết rồi.

Cuối cùng, tôi quyết định chiều theo sự đẩy đưa của trí nhớ, để ký ức dẫn mình đến đâu thì mình sẽ viết đến đấy. Nên bài viết của tôi có cái tựa "lan man", là như vậy.

Tờ lịch tháng tư của VN có ngày lễ lớn 30/4. Cũng như mọi năm, năm nay dù có kỳ nghỉ dài hiếm hoi đến 5 ngày nhưng tôi chẳng đi đâu, vì nhiều lẽ. Thông thường, bao giờ cũng thế, tôi thường tránh đám đông, nên các ngày nghỉ chỉ ở nhà nghỉ ngơi đọc sách nghe nhạc, hoặc viết lách làm thơ, chứ ít khi đến những nơi vui chơi đông đúc.

Riêng dịp 30/4 thì tôi còn một lý do quan trọng khác, đó là đối với gia đình tôi (và nhiều người thuộc bên thua cuộc khác) đây không thể là một dịp để ăn mừng, vui chơi, hay sung sướng gì cả.  Đơn giản là vì ở miền Nam, những ngày này có quá nhiều kỷ niệm đau buồn, chết chóc, những điều cần suy nghĩ và tranh luận, về những sai lầm của quá khứ và cả những hy vọng cho tương lai, nếu bạn còn giữ được chút lạc quan rất cần để sống ở VN.

Những suy nghĩ và thói quen về dịp 30/4 của tôi bắt đầu từ hồi tôi còn ở nhà với bố mẹ ruột. Tôi lập gia đình cuối năm 85 (khoảng gần 2 tháng sau ngày đổi tiền),  nên cho đến khi lấy chồng thì tôi đã trải qua 10 dịp "lễ" 30/4 với bố mẹ và các em. Trong 10 năm ấy, gần như đã trở thành truyền thống, cứ đến trưa ngày 30/4 gia đình tôi lại tụ họp đông đủ vì ai cũng được nghỉ; mẹ tôi sẽ nấu một món ngon, có chất hơn ngày thường. Rồi trong bữa ăn, vô tình hay hữu ý, câu chuyện thế nào cũng dẫn đến những ký ức không bao giờ quên được của ngày 30/4, ngày mà bố mẹ tôi phải chia tay hai đứa con lớn mà thực ra cũng vẫn chỉ là 2 đứa trẻ con vì mới 17 và ngoài 20: anh chị tôi đã chạy ra bến cảng SG cùng dòng người đi di tản vào chiều ngày 29/4/1975, chỉ nửa ngày trước khi miền Nam "được hoàn toàn giải phóng".

Ngày mà sau đó thì anh chị em chúng tôi khi đi thi đại học, xin học, chuyển/ nhập hộ khẩu, xin việc làm thì dường như đều khó khăn hơn người khác, chỉ do một cái tội: con cái của ngụy quyền!

Câu chuyện trong bữa ăn trưa ngày 30/4 của gia đình tôi sau đó đưa đẩy đến số phận những con người bà con, hàng xóm của gia đình tôi, đặc biệt là những người vắng mặt - vắng vì đã chết trong chiến trận thì ít, mà vắng vì đi học tập cải tạo, đi vượt biên đã thoát sang một nước thứ ba hoặc còn đang ở trong trại tị nạn ở Thái Lan, Indo, Singapore vv thì nhiều, thậm chí có cả những người vắng vì mất tích (= chết mất xác), vắng vì đang ở trong tù do bị bắt giữ khi vượt biên .... Và cuối cùng, câu chuyện trong bữa ăn bao giờ cũng là những lo toan cho cuộc sống hiện tại, và tương lai bất định đang đợi chờ chúng tôi trong những ngày ấy.

Cái không khí ấy của 10 đầu sau năm 75 sống chung với bố mẹ ruột đã hình trong tôi một "truyền thống" hay đúng hơn là một nếp gấp trong ký ức về một không khí ảm đạm, đau buồn, lo lắng trong dịp lễ 30/4, dù không bao giờ là thù hận. Bởi vì không giống với một số người khác, bố mẹ tôi rất cố gắng không làm gì để tạo cho con cái một sự oán ghét đối với chế độ mới.

Những khó khăn của cuộc sống hàng ngày hầu như bố mẹ tôi không bao giờ nói ra cho chúng tôi biết, không bình phẩm gì về chế độ mà chỉ giữ thái dộ ôn hòa, còn nếu bao giờ nói gì thì chỉ cố gắng chỉ ra những mặt tốt hoặc tất yếu của những quyết định của "chính quyền cách mạng" mà thôi. Sau này tôi hiểu, bố mẹ tôi làm điều đó vì ý thức rằng tạo cho con cái sự oán hận đối với cuộc đời thì điều đó có hại cho chính chúng tôi trước, vì không ai có thể sống và phát triển bình thường với một tâm hồn chất chứa đầy oán hận.

Nhưng chúng ta hãy quay trở lại với thơ sáu chữ. Chẳng hiểu sao, đối với tôi, nhắc đến chiến tranh VN và những ngày xa xưa thời VNCH, thì tôi lại nhớ ngay đến thơ sáu chữ. Nói một cách văn vẻ thì thơ Đường luật đối với tôi là biểu tượng cho sự phát triển cực thịnh của thời phong kiến, với những bài thơ với niêm luật chặt chẽ, đọc lên nghe cổ kính, trang nghiêm dù luôn phảng phất một chút buồn của một thời dã qua; thơ lục bát là biểu tượng của văn hóa dân gian VN với tất cả sự linh hoạt, nhẹ nhõm và  bền vững của nó, thì thơ sáu chữ chính là biểu tượng của thời VNCH, dù tại sao như thế thì tôi không rõ.

Có thể những người có hiểu biết sâu sắc về thơ văn như anh GNLT hẳn sẽ phân tích được cho tôi biết cảm nhận mà tôi sắp tả có đúng chút nào với lý luận hoặc nghiên cứu văn học hay không. Nhưng với tôi thì thơ sáu chữ luôn gợi cho tôi một cái gì đó còn dở dang, chưa hoàn tất, một ước vọng mơ hồ, như có như không, một sự khôn nguôi nuối tiếc....

Cũng có khi tôi có cảm giác đó là do chính nội dung của những bài thơ sáu chữ mà tôi đã được đọc. Bài thơ sáu chữ xuất sắc nhất của tiếng Việt (theo ý tôi) thì tôi đã đăng lên trong bài viết vừa rồi, bài Tình sầu, nói về một cuộc tình dở dang chưa trọn. Tôi cũng đã đọc được một bài thơ sáu chữ khác gồm nhiều khổ, nhưng thời ấy tôi chỉ là một đứa trẻ con, đọc được bài thơ thì thích nhưng không chép lại, cũng không chú ý tên tác giả hoặc tựa bài thơ, nên giờ đây tôi không còn cách nào để tìm ra được nữa.

Chỉ còn lại trong trí nhớ khốn khổ của tôi một khổ thơ cuối cùng của bài thơ, cũng nói về cái chết, lần này là cái chết của người lính Việt Nam Cộng Hòa, chết trận trong cuộc chiến khốc liệt ấy:

Một ngày rồi con sẽ về
Bên rừng cây già thương lá
Xác chôn mà hồn quặn thắt
Ngời giờ đã mất như mơ...

Đôi khi không phải là cả bài thơ sáu chữ, mà chỉ là những câu sáu lọt trong một bài thơ tự do, chỉ một câu thôi nhưng đối với tôi câu sáu vẫn luôn đem lại một cảm giác rất riêng, và luôn là một cảm giác dở dang chưa trọn. Ví dụ như trong bài Thi khúc say của Hà Thúc Sinh mà tôi rất thích, bài thơ viết về những người lính VNCH, với giọng thơ rất ngang tàng, rất "lính", và tinh thần chán ghét chiến tranh, phản chiến là rất rõ:

Hành quân qua bến đò Mỹ Thuận
Gặp bạn đánh chén say mèm ..

...
Cửu Long giang xa bến
Sẽ chẳng trở về đây
Chiến tranh hề gặp gỡ
Có chắc lần thứ hai?

Mai mỗi thằng mỗi ngả
Thằng Năm Căn, Cà Mau
Thằng Bình Dương, Bình Giả
Thằng địa ngục, thiên đường ...
...
Hãy cười như họng súng
Bắn cuộc đời vỡ toang
Ha ha ha / như họng súng
Ha ha ha / đời vỡ toang ...

Những ngày tháng tư năm 75 ấy, những đứa bé 15 tuổi như tôi cũng đã cảm nhận được vừa rất rõ nhưng cũng rất mơ hồ những gì đang diễn ra quanh mình. Trước đó, trong tháng ba thì những trận đánh ở miền Trung, Tây nguyên diễn ra dồn dập, và người dân ở miền Trung "chạy loạn" lũ lợt kéo nhau chạy về Sài Gòn. Mỗi ngày đi học, thầy cô giáo lại dừng lại nói với chúng tôi vài tin tức thời sự, để lại cho chúng tôi chút ít lo âu. Nhìn xung quanh, thấy mọi việc thật hỗn loạn.

Tôi vẫn nhớ ngày 8/4 lúc phi công Nguyễn Thành Trung ném bom Dinh Độc Lập (người mà mới đây đã có bài phỏng vấn trên báo SGTT với một sự thành thật hiếm có và đáng khâm phục), bọn tôi đang học ở trong lớp học thì nghe cô giáo bàng hoàng thông báo cho biết tin ấy (hình như là cô Diệp dạy Hóa học, tôi cũng không nhớ rõ nữa), và cô có nói: "Chỉ cần sai tọa độ một chút xíu thì trái bom ném vào Dinh Độc Lập hoàn toàn có thể rơi xuống trường mình và thầy trò đã chết sạch cả rồi".

Rồi cô lặng đi một lúc khá lâu, và rất lạ là chúng tôi vốn thường ồn ào như chợ vỡ mỗi lần có thời gian chết, mà hôm ấy cả lớp cũng lặng đi theo cô, mỗi người như lo âu, toan tính một điều gì đó.

Lúc ấy chúng tôi đang ở giai đoạn cuối của học kỳ hai thời lớp 9, mối bận tâm lớn nhất của chúng tôi - của tôi - là khi lên lớp 10 sẽ chọn học ban gì. Lúc ấy, tôi học khá đều, vừa giỏi văn, ngoại ngữ mà cũng giỏi toán, còn ở nhà thì chia làm hai phe. Anh tôi thì muốn tôi học ban Toán, vì sau đó dễ chọn ngành nghề để đi làm, nhưng chị tôi lại muốn tôi học ban Văn, vì "hợp với nữ, nhẹ nhàng, không vất vả", và tôi cũng thiên về phía chị tôi hơn vì tôi cũng rất thích (viết) văn, (làm) thơ.

Lẽ ra thì bọn tôi phải làm đơn đăng ký để chọn ban cho lớp 10, nhưng hình như sau ngày 8/4 đó mọi việc diễn biến rất nhanh và lạ lùng, và ký ức của tôi về trường, lớp của những ngày cuối tháng 4 hoàn toàn mất sạch, chỉ còn chứa những hình ảnh của lần "chạy loạn" cuối cùng vào ngày 30/4 mà tôi sẽ kể vào một dịp khác.

Bài thơ sáu chữ duy nhất của tôi được làm vào những ngày cuối cùng ấy của VNCH, có thể vào đúng ngày bỏ bom Dinh Độc Lập. Tôi nhớ hôm ấy ba tôi đi làm về, có hỏi mẹ tôi có muốn làm hồ sơ xin đi di tản không, hình như ba tôi có thông tin từ tổ chức Caritas có thể đưa dân đi tỵ nạn chiến tranh (thì cuộc chiến ấy đang diễn ra ngay tại Sài Gòn rồi còn gì). Cuộc trao đổi giữa bố mẹ tôi có vẻ rất nghiêm trọng, với nhiều tiếng thở dài, và tôi nhớ có ai đó - không biết là mẹ tôi hay bố tôi - có nhắc đến ông nội còn ở ngoài Bắc ...

Tôi cũng nhớ trước đó sau khi có Hiệp định Paris "chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại VN", "ai ở đâu ở đó" (tức Việt cộng và VNCH phải ngưng bắn, mỗi người cai quản vùng mình đã kiểm soát được, không được xâm phạm nhau), bố tôi có một nhóm bạn trí thức đã có nhiều lần họp tại nhà tôi để tìm một giải pháp về "kinh tế thời hậu chiến" cho VN, trong đó tôi nhớ nhất là phải phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vv.

Tiếc rằng ước mơ hòa bình của VNCH chẳng kéo dài được bao ngày thì chiến trận lại trở nên khốc liệt đến tận cùng, đến nỗi có lúc đã có lệnh tổng động viên tất cả đàn ông VN (miền Nam) từ 17 tuổi đến 43 tuổi, mà năm ấy thì bố tôi đúng 43 còn anh tôi thì 17 tuổi! May quá là miền Nam lúc ấy không quyết định tử thủ, chứ nếu không thì cuộc chiến khốc liệt núi xương sông máu có lẽ vẫn còn dài!!!!

Quay lại bài thơ. Tối hôm sau ngày 8/4 ấy, tôi trằn trọc mất ngủ, như tôi thường xuyên mất ngủ. Mà mỗi lần mất ngủ vu vơ như vậy, thì tôi làm thơ! Tôi làm nhiều thơ, nhưng chủ yếu là thơ 7 chữ hoặc 8 chữ, còn nếu không thì làm thơ tự do tức là hoàn toàn tự do, câu dài ngắn tùy ý. Nhưng không hiểu sao lần ấy tôi lại làm một bài thơ sáu chữ, lần đầu tiên và là lần duy nhất cho đến giờ. Bây giờ đọc lại thấy nó rất dở, nhưng lúc ấy tôi đã làm nó với rất nhiều cảm xúc. Bài thơ ấy tôi làm cho cậu em út, vào năm 75 mới hơn 1 tuổi mà tôi rất thương và có khuôn mặt bầu bĩnh giống tôi hồi nhỏ, tên của cậu lại có lót tên tôi (Anh Tuấn) nữa chứ. Nói thêm, vì nhà tôi có đến 5 đứa con trai, nên lúc ấy mẹ tôi lúc nào cũng lo sợ các con lớn lên thì phải đi lính nếu cuộc chiến kéo dài.

Bài thơ ấy như thế này (và, các bạn còn nhớ luật đọc thơ trên bloganhvu không nhỉ, tôi xin nhắc lại nhé: "chỉ được khen, không được chê" - ngay cả khi chủ nhân của nó đã nói là "rất dở"). 

Ru em ngủ giấc yên lành
Như màu lá mới còn xanh
Mai này rồi em khôn lớn
Xin cho đừng thấy chiến tranh ...

Vâng, bài thơ chỉ có vậy thôi, mộc mạc và thô thiển, nhưng là của một đứa bé 15 tuổi của một đất nước khốn khổ với cuộc nội chiến tính đến lúc ấy đã là 21 năm. Một bài thơ phản chiến, và là một bài thơ sáu chữ. Sau này, tôi còn có một lần sử dụng kiểu thơ 6 chữ ấy một lần nữa khi dịch bài thơ "Ước mộng chưa thành" của Langston Hughes:

Sẽ là gì, những ước mộng chưa thành?

Sẽ như hoa lá úa tàn
Gượng cười trong nắng cuối xuân?

Sẽ như vết thương chưa lành
Còn đầy mủ máu hôi tanh?

Sẽ như chảo mứt qua đêm
Váng đường đóng dày trên mặt?

Hay chỉ là bao gạo nặng
Lặng yên nằm bẹp góc nhà?

Hay nổ tung thành bụi cát bay xa?

Bài thơ này cũng vậy, có chút gì bi quan, "ước vọng chưa/không thành". Và bài thơ được viết (well, dịch) bằng những câu thơ sáu chữ, chỉ trừ câu đầu và câu cuối. Có phải nhịp điệu của thơ 6 chữ là bi quan không nhỉ. tôi tự hỏi. Và có phải tại vì như thế mà tôi nghĩ đến nó như loại thơ đặc trưng cho VNCH chăng, dù tại sao thế thì tôi cũng hoàn toàn không biết!

Vâng, đây chỉ là một entry lan man của tôi vào cuối tháng tư. Chúc các bạn hữu của tôi, và cả những bạn vãng lai vào đây đọc blog, những lời chúc tốt đẹp nhất, và mong những ngày cuối tháng tư của VN trong tương lai sẽ chẳng có triệu người vui hay triệu người buồn nữa, mà chỉ có hàng triệu người thương nhau và cùng hát những bài hát mà TCS đã viết cách đây mấy chục năm rồi, ngay trong giữa cuộc chiến tranh máu đổ thịt rơi ấy:

Ta cùng lên đường, đi xây lại tình thương ...

Các bạn nhỉ?
---
PS: Các bạn nghe bài hát mà tôi nhắc đến ở trên của TCS - Dựng lại người, dựng lại nhà - ở đây nhé: 
https://www.youtube.com/watch?v=2GtHUnY12WE

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Thơ lục ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn ...

Entry này tôi viết để giới thiệu một bài viết khác của người bạn thơ Nguyễn Đại Hoàng, như một lời chúc mừng cuối tuần gửi đến các bạn nhân dịp nghỉ lễ dài sắp đến. Nhưng các bạn biết rồi, trước khi đăng bài của các bạn bè, thân hữu lên tờ báo Anh Vũ này thì tôi phải lấy quyền chủ tờ báo kiêm chủ bút ra để thêm thắt vài dòng vào đấy, nhằm đẩy đưa dẫn dắt bạn đọc đến bài viết kia, mà cũng là để ăn theo, nói leo vào những vấn đề mà bài viết chính đặt ra hoặc gợi ra. Chứ gì nữa, đăng trên báo của mình, tội gì các bạn nhỉ:-).

Vâng, bài viết dưới đây của NĐH nói về số chữ (từ? tiếng?) trong thơ. Nói chính xác, tác giả NĐH muốn tản mạn về việc "bớt chữ trong thơ", để biến thơ 7 chữ thành 6 chữ, thơ 6 chữ thành 5 chữ vv. Theo anh NĐH thì bớt chữ đi như thế đôi khi làm cho bài thơ gọn hơn, nhẹ hơn và hay hơn. Ừ, gì chứ vụ bớt chữ làm thơ hay hơn này thì tôi có kinh nghiệm mà, các bạn có còn nhớ bài Đường thi Phong kiều dạ bạc mà người bạn tôi ở phương xa đã dịch và gửi cho tôi, rồi tôi cũng cao hứng và dịch ra tiếng Việt không? Bài ấy tôi đã dịch ra như thế này (tranh thủ giới thiệu lại thơ dịch của mình, hi hi):

Trăng thì lặn/Trời thì sương/Tiếng quạ kêu/Lạc lõng
Cây thì lặng/Đèn chài khuya/Chấp chới/Ánh đỏ vàng
Chùa thì xa/Thấp thoáng/Bên Cô Tô/Thành cũ
Chuông thì ngân/Đêm thì vắng/Buông từng tiếng/Vọng muôn đời. 

Bài ấy đăng lên rồi, thì có một bạn đọc (chẳng biết ai nhỉ) comment là nên bớt từ "thì" trong các câu thơ đi thì nghe sẽ hay hơn. Tôi làm theo, và quả thực bài thơ trở nên nhẹ và thanh hẳn, khá giống một bài hài cú của Nhật, như sau:

Trăng lặn/Trời sương/Tiếng quạ kêu/Lạc lõng
Cây lặng/Đèn (chài)* khuya/Chấp chới/Ánh đỏ vàng
Chùa xa/Thấp thoáng/Bên Cô Tô/Thành cũ
Chuông ngân/Đêm vắng/Buông từng tiếng/Vọng muôn đời.  

* Chú thích: Đã bớt chữ thì tôi nghĩ nên bớt luôn chữ "chài" ở câu này để nhịp điệu bài thơ đều hơn, do 3 câu còn lại thì đều có 2 từ ở cụm thứ hai (Trăng lặn/trời sương; Chùa xa/thấp thoáng; Chuông ngân/đêm vắng). Mặc dù người góp ý cho tôi chỉ đề nghị bỏ chữ "thì" mà thôi.

Bài thơ ấy của tôi sau khi bớt từ đi "thì" ai cũng nói là nghe hay hẳn lên. Ừ, thì cũng hay, có lẽ hay hơn thật. Nhưng tôi, tác giả của bản dịch ấy, lại vẫn cứ thích bài thơ cũ có chữ "thì" của mình. Có nhiều lý do, trong đó chắc chắn có lý do ngoan cố, không chịu để cho người khác ... sửa lưng mình, hẳn thế. Nhưng cũng còn một lý do khác: tôi thích những câu thơ 3 chữ có cái chữ "thì" thô thô, nằng nặng ấy, vì nhịp điệu của nó chầm chậm, đều đều, xàng xê như nhịp valse 3/4, mà tôi tưởng tượng rằng nó rất giống như thời khắc lúc ấy, đêm thì đen, đèn thì leo lét (à, cô bạn tôi ở Mỹ dùng từ "leo lắt" ở chỗ này, một cách dùng từ thật sáng tạo vì nó kết hợp "leo lét" và "lay lắt"), xa xa vọng tiếng chuông chùa boong ... boong chậm rãi. Có cái hay của nó chứ bộ?

Rồi tôi chợt nhớ đến những bài thơ 6 chữ mà tôi đã được đọc, không nhiều, nhưng bài nào tôi thấy cũng rất hay, có lẽ vì cái nhịp điệu đều đặn, cân đối của nó. Theo tôi, thơ 6 chữ không dễ làm, hoặc nói đúng hơn là không dễ làm hay. Và bài thơ 6 chữ tiếng Việt hay nhất theo tôi là bài thơ Tình sầu của nhà thơ tiền chiến Huyền Kiêu viết từ năm 1938. Các bạn đọc ở dưới đây nhé: 

Tình sầu
Xuân hồng có chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi tóc xoã ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội


Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối


Thu biếc cũng chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi


Đông xám lại chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối.


Hay quá phải không các bạn? Thơ, đối với tôi là một cõi riêng, một chốn rong chơi, một nơi trú ẩn (thì tôi đã từng viết rồi còn gì, "Nơi trú ẩn của tôi/ là thơ đấy ..." Các bạn muốn đọc thêm thì vào đây này: http://bloganhvu.blogspot.com/2010/07/noi-tru-cua-toi.html - lại tranh thủ quảng cáo nữa rồi!). Nhưng thôi, tôi viết đã quá dài, phải dừng lại để còn chỗ giới thiệu bài viết của người bạn thơ của tôi nữa chứ. Một người yêu thơ chẳng kém gì tôi ...

Các bạn đọc bên dưới nhé!
-------------


Tản mạn cuối tuần

BỚT CHỮ TRONG THƠ !  

1. Vương Bột là một nhà thơ nổi tiếng đời Đường, ông có hai câu thơ được coi là hai câu thơ tả cảnh hay nhất Trung Hoa :



Lạc hà dữ cô vụ tề phi

Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc



Ráng chiều cùng với cánh cò cô độc cùng bay

Làn nước thu với bầu trời mênh mông một sắc



Sau có người cho rằng nên bỏ hai chữ  “ dữ ” và chữ “ cộng ”  thì bài thơ gọn và súc tích hơn nhiều :



Lạc hà cô vụ tề phi

Thu thủy trường thiên nhất sắc



Ráng chiều, cánh cò cô độc cùng bay

Làn nước thu, bầu trời mênh mông một sắc



2. Tương tự như vậy tôi muốn nói đến một bài thơ của Vương Duy, vừa được học giả GNLT giới thiệu trên blog Anh Vũ. Đó là bài Lục Ngôn Tuyệt Cú, nhưng nhiều tài liệu ghi là Điền Viên Lạc kỳ 4, nguyên văn như sau : 



田園樂其四

桃紅復含宿雨
柳綠更帶朝煙
花落家童未掃
鳥啼山客猶眠



Đào hồng phục hàm túc vũ,

Liễu lục cánh đới triêu yên.
Hoa lạc gia đồng vị tảo,
Điểu đề sơn khách do miên. 


hàm  : ngậm 

túc vũ : mưa đêm
đới : đeo

triêu yên : sương sớm

đồng : con trẻ

vị : chưa

do : còn



Đào hồng còn ngậm mưa đêm

Liễu xanh còn đẫm sương sớm

Hoa rụng, trẻ nhà chưa quét

Chim kêu, khách núi còn ngủ



Nếu như Giang Nam tiên sinh cho rằng mỗi câu có thể thêm một chữ để trở thành thất ngôn tứ tuyệt, thì tôi lại cho rằng mỗi câu nên bớt đi một chữ để trở thành ngũ ngôn tứ tuyệt :



Đào hồng hàm túc vũ,

Liễu lục đới triêu yên.
Hoa lạc đồng vị tảo,
Điểu đề khách do miên. 



Đào hồng ngậm mưa đêm

Liễu xanh đẫm sương sớm

Hoa rụng, trẻ chưa quét

Chim kêu, khách còn ngủ



Tới đây 2 câu đầu mỗi câu có thể bớt đi 1 chữ nữa :



Đào hàm túc vũ,

Liễu đới triêu yên.
Hoa lạc đồng vị tảo,
Điểu đề khách do miên. 



Đào ngậm mưa đêm

Liễu đẫm sương sớm

Hoa rụng, trẻ chưa quét

Chim kêu, khách còn ngủ



Thậm chí 2 câu đầu còn có thể bớt đi mỗi câu 1 chữ nữa :



Đào hàm vũ,

Liễu đới yên.
Hoa lạc đồng vị tảo,
Điểu đề khách do miên. 



Đào ngậm mưa 

Liễu đẫm sương

Hoa rụng, trẻ chưa quét

Chim kêu, khách còn ngủ



3. Thất ngôn tứ tuyệt thành lục ngôn tứ tuyệt !

Đó là trường hợp một bài thơ đã được đưa vào sách giáo khoa- bài Khai Quyển trong tập Ngục Trung Nhật Ký của HCM - một bài thất ngôn tứ tuyệt, nhưng có lần, không rõ vì sao Nhà Xuất Bản Đà Nẵng khi biên tập đã cắt bớt mỗi câu một chữ cuối- các  túc từ - thành ra bài thơ gần như không còn giữ được ý nghĩa của nguyên tác !



Nguyên tác : 



開卷



老 夫 原 不 愛 吟 詩

因 為 囚 中 無 所 為

聊 借 吟 詩 消 永 日

且 吟 且 待 自 由 時



Lão phu nguyên bất ái ngâm thi

Nhân vị tù trung vô sở vi

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật

Thả ngâm thả đãi tự do thì



Và bài sau khi đã “ biên tập ” :



老 夫 原 不 愛 吟
因 為 囚 中 無 所
聊 借 吟 詩 消 永
且 吟 且 待 自 由



Lão phu nguyên bất ái ngâm 

Nhân vị tù trung vô sở 

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh 

Thả ngâm thả đãi tự do  





Âu cũng là hy hữu !



Nguyễn Đại Hoàng

4/2013

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

"Cảnh - Sự - Tình trong Đường thi" (Giang Nam Lãng Tử)

Tôi đã nhận bài này (và một vài bài khác) của thầy GNLT cách đây ít lâu rồi, trong loạt bài "bổ túc văn hóa" về Đường thi cho tôi. Nhưng lúc ấy tôi không có thời gian để đọc kỹ, và cũng không đăng lên ngay, vì nghĩ mọi người cần có một ít thời gian để tiêu hóa những gì mình đã đọc trước đó (well, tôi nghĩ thế là dựa vào khả năng tiếp thu của chính tôi, vốn là loại người "thông minh nhưng chậm hiểu" như người ta hay nói ấy mà, hi hi!)

Hôm nay có ít thời gian, tôi lôi lại những bài mà thầy GNLT đã gửi để đọc, và thấy bài này rất hay, thật nhiều thông tin, vừa bình những bài thơ Đường xuất sắc nhất vừa đưa ra những hướng dẫn có thể dùng làm một bài "chỉ dẫn" phổ thông cho mọi người khi đọc Đường thi. Rất có ích, mà tôi thì là một người rất biết chia sẻ nên không thể giữ riêng để đọc một mình được. Nên vội đăng lên đây để cho mọi người cùng đọc và trao đổi.

Cám ơn anh PHN đã rất nhiệt tình chia sẻ với tôi và các bạn đọc bloganhvu một phần (rất nhỏ, chỉ như cái móng tay) trong "sở học" của anh, anh PHN nhé. Còn ai muốn đọc nhiều hơn nữa thì xin vào trang của Giang Nam Lãng Tử, ở đây: giangnamlangtu.wordpress.com. Nói thêm: ở đó không chỉ có văn học mà còn nhiều thứ khác nữa, rất đáng để vào xem đấy các bạn ạ.
---------------------

CẢNH - SỰ- TÌNH TRONG ĐƯỜNG THI

Thơ cổ phương Đông thường gắn với hội họa. Có câu “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa), còn “thi trung hữu nhạc” thì rõ quá rồi (Luật niêm, vần, đối cũng là “nhạc tính” của thơ cổ).

Thứ nhất là “CẢNH”

Thi và họa cổ điển chủ yếu vẽ CẢNH vật và nhân vật.
 

Cảnh vật được ưu tiên số 1, còn “nhân vật” phải nép mình, ẩn mình trong /sau cảnh vật. Đó là nguyên tắc chính.

Thứ 2 là “SỰ” (sự việc/ động từ) tức là cử chỉ hành vi của nhân vật (chủ yếu là nhà thơ hóa thân thành nhân vật trữ tình).

Thứ 3 là “TÌNH”: ẩn kín càng kỹ càng hay. Nếu nhịn không được thì hé một chút thôi nhá.

Xếp theo thứ tự ưu tiên sẽ là: CẢNH- SỰ- TÌNH.

Nhà thơ cổ điển cố tránh lộ diện và lộ tình cảm của mình. Đặc biệt nhà thơ né trành các từ ngữ bộc lộ trực tiếp như : nhớ, thương, yêu, hận, sầu, muốn, vui, hi vọng, thất vọng, tuyệt vọng.v.v…Bế tắc lắm, không nhịn được cũng chỉ bộc lộ một chữ “sầu’ là cùng. Họ cố gắng nhờ cảnh vật nói hộ (ký thác, gửi gắm) cảm xúc của mình.

Ngay trong bài mở đầu về Đường thi dẫn luận (1) trên Blog Anh Vũ, Lãng tử đã viết “Ít khi thơ chịu nói hết ý, và không nói trực tiếp, mà chỉ dựng lên hàng loạt mối quan hệ để cho độc giả tự suy luận, còn gọi "vẽ mây, nẩy trăng " (chỉ tả đám mây, nhưng ta cảm thấy có vầng trăng khuất ở phía sau), ý ở ngoài lời, ý đến mà bút không đến, bút dừng mà ý không dừng, lời hết mà ý chưa hết...”.

Thi nhân và họa sĩ thường kết bạn với nhau, thi nhân nhiều khi biết vẽ, hoạ sĩ ít ra cũng biết làm thơ. Thời nhà Đường ba thế kỷ, hội họa cũng phát triển tương đương với thơ.

Bây giờ Lãng tử đi vào phân tích 03 bài: “Lục ngôn tuyệt cú” của Vương Duy, “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ và “Quân hành “ của Lý Bạch để nêu bật ra vấn đề cảnh- sự - tình. (tham khảo thêm Đề đô thành nam trang, Hoàng hạc lâu, Phong kiều dạ bạc)

1. “Lục ngôn tuyệt cú” của Vương Duy

Phiên âm Hán Việt

Đào hồng phục hàm túc vũ
Liễu lục cánh đới triêu yên
Hoa lạc gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên


Dịch:
Đào hồng còn giữ nước mưa
Liễu xanh lại dầm sương sớm
Hoa rụng, gia đồng chưa quét
Oanh kêu, khách núi vẫn ngủ say


(Lãng tử)

Lời bàn
Mùa xuân đến rồi với mưa phùn đêm qua không nặng hạt còn để lại dấu tích trên cánh hoa đào hồng hồng tươi với chút nước mưa, trên lá liễu xanh xanh thắm vì ẩm ướt hơi sương.
 

Cả hai vẫn còn trong giấc ngủ mơ màng.

Bài thơ như một bức tranh núi buổi sớm mùa xuân.


Có ba nhân vật là: thi nhân (có thể là ẩn sĩ), khách và gia đồng (chú bé giúp việc).
Khách và gia đồng còn mải ngủ say.
Cảnh vật (đào hồng, liễu xanh) cũng ngủ say.
Có tới bốn kẻ ngủ say là: đào hồng, liễu xanh, gia đồng, sơn khách.

Chỉ có hai nhân vật thức giấc.

Đó là: Con chim oanh vô tình cất tiếng hót và nhà thơ (Vương Duy) thức dậy sớm nhưng yên lặng ngắm nhìn cảnh vật, thưởng thức khí xuân, không muốn làm rộn đến ai, nhất là bạn nơi xa đến thăm, đêm qua cuộc rượu trùng phùng, lại thêm khí hậu lạ, bạn quý ngủ say, mặc bạn ngủ nướng thoải mái cho đã mắt. Ông chủ cũng không nỡ mắng gọi thằng bé giúp việc thức quét hoa rụng. Ông nhớ đêm qua nó cũng thức phục vụ tiệc rượu tới khuya. Vả lại nó còn trẻ đang tuổi ăn tuổi ngủ, tội nghiệp...

Ông chỉ lẳng lặng ngẫm ngợi cho tứ thơ “Lục ngôn tuyệt cú”.
Chỉ cần thêm mỗi câu một tiếng thì ta có thất ngôn tứ tuyệt (4x 7)
Nhưng nhà thơ không nỡ thêm một “tiếng” nữa khiến vị khách quý thức giấc.

Vậy thì có lục ngôn tuyệt cú (4x 6) cũng tạm được, cũng chả cần đặt tựa cho bài thơ ngẫu hứng.

Bài lục ngôn Vương Duy chỉ có CẢNH, chẳng có việc gì xảy ra (vô SỰ), và dường như cũng chẳng có tình cảm gì lộ ra (vô Tình)?
Ngẫm cho kỹ thì nhất định bài thơ phải có tình, nhưng ẩn kín phía sau 24 chữ...

Có phải thế này chăng:

Vương Duy yêu tha thiết cảnh sống trên núi buổi sáng mùa xuân
Vương Duy rất quý người khách đến thăm mình.
Vương cũng yêu mến chú bé giúp việc nhà (gia đồng) ...

Vương Duy là thi nhân và cũng là một họa sĩ nổi tiếng thời ấy.

Bạn có thể vẽ một bức tranh minh họa bài thơ trên được không, dù vẽ xấu cũng không sao ?

“Lục ngôn tuyệt cú” là bài thơ tứ tuyệt phá cách xuất sắc thuộc phái điền viên.

2. Quân hành (Lí Bạch)

Lựu mã tân khóa bạch ngọc an
Chiến bãi, sa trường nguyệt sắc hàn
Thành đầu thiết cổ thanh do chấn
Hạp lí kim đao huyết vị can


Bài hát người lính

Ngựa tuấn mã vừa mới thay dây cương, yên đeo bạch ngọc
Chiến trận ngừng, ánh trăng lạnh lẽo trên sa trường
Đầu thành, tiếng trống còn nghe dư âm
Trong hộp, lưỡi kiếm quí còn dính máu


Ghi chú: “Lưu mã” là giống tuấn mã, lông hồng, đuôi đen bờm đen, giống quý trong số hơn 30 loại ngựa khác nhau ở Trung Quốc .

Lời bàn
Bài thơ miêu tả hình ảnh kẻ chinh phu ra trận cùng con tuấn mã trẻ trung, lộng lẫy.

Mở đầu tả con ngựa quí đắt tiền được chuẩn bị yên cương chắc và đẹp. Không một chữ tả người kỵ sĩ. Nhưng tôi có thể tưởng tượng ra chủ nhân của con ngựa này, hẳn phải là một trang hiệp sĩ quí tộc, chẳng phải một lính thường. Thái độ háo hức lập công của anh ta bộc lộ khi chuẩn bị con ngựa lên đường ra trận, ra trận mà lộng lẫy như đi trảy hội . (Câu 1)

Bỗng nhiên đột ngột báo rằng chiến trận ngừng, ánh trăng trên sa trường lạnh lẽo. Vẫn chưa tả người. Có lẽ chết cả rồi, chết nhiều đến nỗi tử khí thây ma bốc lên lạnh cả ánh trăng. Lòng người lính sống sót càng trở nên lạnh lẽo (Câu 2)

Tâm trạng một người lính còn sống, đứng đó, thẫn thờ.. Chắc đó là chủ nhân của con ngựa quí đã may mắn sống sót. Anh ta vẫn bàng hoàng, trong đầu còn “dư âm tiếng trống trận” khủng khiếp mặc dù kẻ đánh trống giờ này cũng đã chết, trống vứt đâu đó trên thành lũy… (câu 3)

Thanh kiếm cũng rất quí, chuôi khảm vàng bạc (kim đao) nay dính máu dơ tanh đã nhét vội vào vỏ kiếm. Sao anh lính không lau chùi sạch máu rồi hãy đặt vào hộp đàng hoàng, như trước khi ra trận con ngựa còn được trang điểm đẹp đẽ nhường kia ?! (câu 4)

Sau cuộc chiến, tâm trí anh đã thay đổi rồi. Cái đẹp còn ý nghĩa gì nữa trên xương máu ngổn ngang ?!

Cuối bài thơ không thấy nhắc tới con ngựa quí nữa, hẳn là nó đã chết rồi, lẫn trong đám xác người và ngựa ngổn ngang ! Có thể lát nữa người ta sẽ lột da nó để bọc thây đồng đội mà vùi chôn.
 

Chủ nhân bàng hoàng, tiếc rẻ con ngựa. Chàng hoang mang khiếp hãi cuộc chiến tàn khốc vừa rồi. Không một dòng thơ nào tả cuộc xung đột đẫm máu ! Nhà thơ không chịu viết một câu thơ nào tả sự đâm chém điên cuồng của con người trong thời đại ấy.

Bố cục bài thơ thật kỳ lạ: Câu 1 tả cảnh trước khi ra trận, câu 2,3,4 tả cảnh hậu chiến. Thi nhân chẳng chút quan tâm tới công thức “đề- thực- luận- kết”. Lí Bạch phá cách dữ dội mà làm nên kiệt tác.

Quan điểm nhân sinh của thi nhân họ Lý thật độc đáo, sâu sắc qua một bài tứ tuyệt miêu tả chiến tranh. Tư tưởng nhân đạo, phản chiến của ông cao vời vợi, nghệ thuật thi ca hàm súc kì thú khác người …

3. Tuyệt cú (Đỗ Phủ)

Lưỡng cá hoàng li minh thuý liễu
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền


Tuyệt cú (có người dịch là Câu thơ trác tuyệt)

Hai con chim oanh kêu vang trong đám liễu biếc
Một hàng cò trắng bay hướng lên trời xanh
Song cửa chứa núi Tây Lĩnh tuyết đọng ngàn năm
Ngoài cửa, đậu sẵn những con thuyền xứ Đông Ngô xa vạn dặm

(Lãng tử)

Dịch thơ

Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một đàn cò trắng vút trời xanh.
Ngàn năm tuyết núi song in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.

(Tản Đà)

Thưởng thức
Lúc này nhà thơ đang phiêu bạt ở nơi xa, tạm ở trong một căn lều cỏ do bạn hữu góp sức làm giúp. Đường về quê Hà Nam phải qua xứ Đông Ngô (Giang Tô)- chú thích của sách gốc. Bài thơ như bộ tranh tứ bình, kết cấu liên hoàn diễn tả một tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ.



Ngồi buồn lặng lẽ một mình, chợt nghe tiếng đôi chim oanh ríu rít từ phía đám cây liểu xanh bên hông nhà. Tiếng hót của chim rất trung thực, vui buồn cứ lộ hết ra. À… đó là một đôi chim trống mái đang vui vầy trong tổ ấm. “Minh” là kêu vang lên, tưởng như làm rung động cành liễu xanh biêng biêc. Nghe đôi chim hạnh phúc trong tổ ấm (đúng nghĩa đen của “tổ ấm” đấy nha, chả hiểu sao cái loài người ở nhà cao cửa rộng cũng thích điệu đàng gọi ngôi biệt thự bê tông một hay nhiều tầng của họ là “tổ ấm” ?!) thi nhân bỗng nhớ nhà, nhớ vợ hiền ở nơi xa…Hay là ta quay về nhà thôi…(câu 1)

Bước ra cửa lều vươn vai ngẩng nhìn trời xanh, chợt thấy một đàn cò trắng đang bay vút lên theo con đầu đàn lãnh đạo. Nhà thơ nhớ tới những ngày cùng bạn hữu hăm hở trên đường lập công danh, sải cánh trên chốn giang hồ tự do…(câu 2)

Băn khoăn lựa chọn hướng nào đây, tiếp tục như đàn cò trắng hay quay về nhà như đôi chim oanh ?

Quay vào nhà, thẫn thờ ngồi nhìn qua song cửa, thấy xa xa là ngọn núi Tây Lĩnh. Nhà thơ cảm thấy cái lạnh của “tuyết đọng nghìn năm”. Thực vậy chăng? Ngọn núi rất xa kia mà, xa đến mức ngọn núi thu nhỏ gọn trong cửa sổ, theo luật viễn cảnh. Khí lạnh của ngọn núi từ xa khó mà làm lạnh cả thi nhân. À, vậy là thi nhân lạnh từ trong lòng mình rồi. Nhiệt huyết tung cánh bươn chải chốn giang hồ đã nguội rồi, chí công danh cũng nguội rồi, nguội đến nỗi thế. (Trong thi ca người ta gọi đó là cảm giác nhầm lẫn, nhà thơ đôi khi nhầm lẫn thế) (câu 3 là câu luận, lúc này nhà thơ có quyền giãi bày lòng mình mà). Đỗ Phủ mượn ngọn núi Tây Lĩnh nói hộ lòng mình, quyết không tự nói ra (hỡi ôi thi nhân cổ điển gan lỳ quá, Lãng tử xin chào thua).

Thi nhân nhìn ra dòng sông trước cửa, có một con thuyền mang dấu hiệu Đông Ngô (Giang Tô) đậu sẵn, như đang chờ khách đi dò dọc. Quê nhà Đỗ Phủ thuộc tỉnh Hà Nam, muốn trở về theo đường tiện lợi nhất thì phải qua Giang Tô… (câu 4)

Lãng tử xin phép đố bạn đọc của Anh Vũ blog một câu: cuối cùng thì Đỗ Phủ có bước lên con đò ấy về quê không nào ? Tôi không biết. Nãy giờ thi nhân chả hành động gì, chả nói gì, chỉ để mắt nhìn qua bốn cảnh vật diễn tả trên 4 câu tứ tuyệt.

Bài thơ có hai cặp đối rất hoàn chỉnh (loại 3). Mong bạn đọc chỉ cho biết “đối kiểu gì”?

Lại xin đố câu thứ 3: câu thơ nào kỳ diệu nhất trong bài tứ tuyệt được thi nhân đặt tên là TUYỆT CÚ? (đành rằng câu thơ nào cũng hay rồi)

Sẽ có các phần thưởng giá trị cho hai câu trả lời hay nhất do chủ nhân Anh Vũ gửi tặng..


Chúng ta cùng trở lại bến “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế.

Cảnh nửa đêm trên một bến thuyền
Mỗi câu là một cảnh vật.
Không có Sự gì xảy ra, ngoài một tiếng chuông chùa kết thúc bài thơ.
Duy có một chút TÌNH xen vào câu 2 (“sầu miên”: ngủ mà buồn rầu)

… chúng ta tìm đến thôn Đào Hoa, đến trước cánh cửa ngõ nhà thôn nữ.

Trên cánh cửa ghi bài thơ tứ tuyệt.
Cảnh 1: Cánh cửa khép hờ trước mắt.
(Tích niên kim nhật thử môn trung)


Cảnh 2: Nhà thơ nhìn thấy thiếu nữ đứng bên cây hoa đào (hoa mắt choáng váng không phân biệt được màu hồng hoa đào và hồng nhan), Chàng kiếm cớ bước vào xin nước uống… Uống rồi trò chuyện tào lao vài câu rồi đi sau, biết lấy cớ gì ở lại?! ..

(Nhân diện đào hoa tương ánh hồng)

Cảnh 3. Một năm sau chàng quay lại, không thấy hồng nhan, băn khoăn dò hỏi nàng ở nơi nao. 

(Nhân diện bất tri hà xứ khứ)

Cảnh 4. Hoa đào năm ngoái cười giỡn với gió xuân. 

(Đào hoa y cựu tiếu đông phong)

Bài thơ gồm Cảnh và Sự. Không thấy chữ nào nói chàng Thôi Hộ si tình, chàng nhớ, chàng yêu, chàng thất vọng. Nhưng bạn đọc đểu hiểu rõ sự tình ấy nha.

Và lần tìm tới thăm Hoàng hạc lâu ở tỉnh Hồ Bắc.

(xin xem bài “Thực và ảo” trong Hoàng hạc lâu trên Blog Anh Vũ)
 

Nhà thơ Thôi Hiệu không vẽ cảnh lầu hạc, bởi ông đâu có quan tâm cái lầu cao hay thấp, xấu hay đẹp. Đến nơi đó, ông chỉ dáo dác tìm con Hạc. Nhìn lên trời thấy bạch vân và cùng ngóng đợi. Mỏi mắt, thất vọng, ông nhìn ra xung quanh thấy cảnh bờ sông hàng cây in mặt nước sông Hán, bãi cồn Anh Vũ xa xa cỏ non xanh rì.. Hình ảnh cuộc sống hiện thực tràn sinh lực và tươi đẹp quyến rũ chừng nào.. Quay bốn hướng ngơ ngác tự hỏi làng quê ta ở phiá nào. Chẳng cần nói “nhớ nhà” nhưng ta biết chắc ông đành phải muốn về nhà. Không nén được một tiếng thở dài trước khi quay gót, ông viết “Khói sóng trên sông làm ta buồn bực” (!)
 

Có người bình luận rằng, cái hay của bài Hoàng hạc lâu dồn lại một chữ “sầu”. (bình luận tào lao quá, bạn hỉ ?- Lãng tử trộm nghĩ vậy. Thôi Hiệu chả cần nói “sầu” thì chúng ta
cũng cảm thấy như thế thôi.

Tái bút:
E rằng có bạn đọc điên tiết bảo “gớm cái nhà ông Giang Nam Lãng tử này chỉ giỏi biạ đặt, hư cấu, tán dóc. Thi nhân người ta viết có bốn câu thơ mà ông nói tràng giang đại hải…?”
 

Lãng tử sẽ thưa lại: tôi không biết, tôi chỉ đọc thơ rồi nó bật ra những cái ý nghĩ ấy, bèn ghi nó ra giấy thôi.

Giang Nam lãng tử

-------------
PS1: Gần đến ngày 30/4, đọc bài thơ Quân hành của Lý Bạch, rồi đọc lời bình của GNLT, tự nhiên tôi nghĩ, giá mà người ta đọc thơ và hiểu thơ nhiều hơn, thì có lẽ sẽ có ít chiến tranh hơn, và những cuộc chiến nếu có cũng bớt tàn khốc hơn. Hay ít ra, là sau cuộc chiến, người ta sẽ có những ứng xử nhân văn hơn hiện nay, nhỉ?

PS2: Các bạn ơi, bài viết đăng lên sáng nay còn sót một chỗ, anh GNLT mới bổ sung và tôi đã đưa lên (phần có tô highlight màu xám), rất hay, bỏ qua rất uổng. Các bạn đọc nhé!
 

PS3: Trong phần mới bổ sung, tô màu xám, có mấy câu đố của anh GNLT, đó là đố vui có thưởng do tác giả GNLT ra câu đố nhưng lại đá trái banh sang cho Anh Vũ thưởng! Xin đính chính: phần có thưởng ấy là do anh GNLT đặt ra chứ chủ nhân blog này ... vô can ạ! Ai muốn bắt đền thì xin vào trang GNLT (giangnamlangtu.wordpress.com) để đòi nhé!

Nhặt lại hình của chính mình từ Internet


Có một người bạn hỏi tôi, tại sao trên blog của tôi không thấy có hình ảnh gì cả?

Nói như thế thì không đúng phải không, vì trên blog tôi cũng có một số hình mà! Nhưng quả thật, tôi ít khi đưa hình ảnh lên blog, mặc dù cũng hay chụp hình. Và thường thì tôi đi chụp cho người khác, hoặc chụp cảnh vật, chứ ít đứng làm mẫu cho người khác chụp, trừ những ảnh kỷ niệm mà tôi phải đứng vào để bạn bè, người thân chụp rồi lưu lại hoặc chuyển cho người khác xem.

Nhưng thật ra như thế cũng ... thật dở, vì lâu lâu cũng có lúc tôi cần có hình của mình. Ví dụ, khi nói về  một ai đó mà mình đã biết, hoặc một việc gì đó mà mình đã tham gia vv thì tôi chẳng có gì trong tay để minh họa cả, ngoài những lời nói dựa trên ký ức (ngày càng khốn khổ) của chính mình. Tệ hơn nữa, thỉnh thoảng tôi có trả lời trên báo chí, và nhà báo xin tôi một tấm hình chân dung nào đó mà tôi ưng ý, nhưng tôi không bao giờ tìm ra được! Thường cứ phải search trên mạng rồi đưa cho họ. Nên sau này báo chí biết ý, khỏi cần hỏi, cứ search trên mạng rồi bỏ vô bài thôi. Mà khổ nối họ toàn tìm thấy hình xấu không à, hu hu hu!

Nên hôm nay, thấy tấm hình đám cưới của một cậu học trò cũ đưa lên facebook, trong đó có tôi, thì tôi nghĩ có lẽ phải nhặt các tấm hình lưu lạc của tôi về đây cất. Để còn lưu cho chính mình chứ, và quan trọng hơn là khi tìm lại thì còn có cơ mà tìm được. Chứ nếu không thì mấy cái hình xấu nhất của tôi sẽ được báo chí dùng đi dùng lại, thì chết mất thôi!

Khổ như vậy đó! Các bạn xem mấy tấm hình mà tôi mới tìm được ở dưới đây nhé.
Đám cưới Lê Đình Dũng, mới cách đây vài tuần thôi

Tụ họp bạn bè Gia Long, tháng 1/2013

Chia tay TTV của UEF, tháng 1/2013

Tại nhà anh An Chi, trước Tết

Tất niên UEF, trước Tết, với Thanh Hà BMNN

Tất niên UEF, một góc của toàn cảnh


Tụ họp nhân dịp Tễu vào SG chơi, trước Tết