Tinh thần cầu học: Sự khác biệt giữa Việt Nam và Nhật Bản
http://nhuongquyenvietnam.com/news/newsdetail/16641.htm
---------------Tâm tính và tinh thần cầu học của quốc gia sẽ đưa lại những ngã rẽ khác nhau, hoặc phú cường hoặc tụt hậu.
Cả Việt Nam và Nhật Bản đều chung không gian văn hóa Đông Bắc Á, đều có hàng ngàn năm coi Trung Hoa như trung tâm văn minh thế giới. Nhưng sự khác biệt về tinh thần cầu học đã đem lại số phận khác nhau cho hai quốc gia, hai dân tộc.
Góc quay lịch sử bắt đầu từ thời cận đại khi gió Tây thổi bạt Đông(1).
Bản tính dân tộc
Người
Nhật là một dân tộc kiêu ngạo, quật cường và hãnh tiến. Bốn hòn đảo lớn
(Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu) mà họ sinh sống giàu có đủ tính
biệt lập, bão biển, động đất, … Yếu tố tự nhiên như thế hun đúc nên bản
tính người Nhật “vừa nghiêm khắc vừa mơ mộng”, tuân thủ kỷ luật xã hội và bảo vệ đến cùng các giá trị Nhật Bản.
Là
quốc gia trơ trọi giữa biển khơi nên người Nhật thực dụng và ham mạo
hiểm. Họ học hỏi rất nhiều từ Trung Hoa nhưng không chịu ràng buộc và
không biết “sợ” Trung Hoa.
Vua
Trung Hoa xưng Thiên tử, Vua Nhật xưng Thiên hoàng. Khi hùng mạnh lên,
người Nhật sẵn sàng viễn chinh thẳng đến Trung Hoa lục địa, tướng
Toyotomi Hideyoshi từng xâm lược Triều Tiên (cuộc chiến 1592 -1598) công
khai nhắm tới nhà Minh, Lữ Chân (tiền thân của nhà Thanh sau này), Ấn
Độ. Năm 1895, Minh Trị Thiên Hoàng cử quân đánh bại Bắc Dương quân cùng
hạm đội Bắc Dương hùng mạnh của nhà Thanh (2), sáp nhập Đài
Loan; Nhật Bản xâm lược Trung Hoa trong những năm 1937 – 1945; tranh bá
Thái Bình Dương với Hoa Kỳ. Bại trận trong Thế chiến II, những samurai
cúi đầu đưa thanh gươm vào bao để mấy thập kỷ sau Nhật Bản thành cường
quốc kinh tế thứ hai thế giới.
Tất cả đã thể hiện phần nào đặc tính Nhật Bản quyết liệt và ham chinh phục.
Trong
khi đó người Việt sở hữu vùng châu thổ và trung du Bắc Bộ, mở mang lãnh
thổ xuống phương Nam. Được thiên nhiên ưu đãi, người Việt chỉ cần cày
cấy, làm lụng thì ăn mặc không phải lo lâu dần hình thành tâm tính an
phận thủ thường, “dĩ thực vi thiên” (3), óc khám phá, ham chinh phục ngày một suy yếu (xem thêm Trần Trọng Kim: Việt Nam Sử Lược).
Người
Việt nhìn chung cần cù, chuộng hòa bình thích thanh nhàn, không có tham
vọng lớn, không có lòng chinh phục và óc mạo hiểm. Còn người Nhật thì
dám vượt lên áp lực của quá khứ, cầu học để phát triển quốc gia thịnh
vượng.
Câu chuyện trăm năm
Vì
tâm tính như vậy nên người Nhật cầu học, vượt sóng gió, mạo hiểm sinh
mạng để tìm lấy những giá trị văn hóa văn minh vun trồng thêm cho cốt
cách của dân nước “mặt trời mọc”. Còn người Việt chỉ biết ngồi nhà chờ
người ta mang tới.
Từ
cải cách TaiKa năm 646 đến thời Nara (710 – 794), người Nhật tới Trung
Hoa du học. Phố Đường được hình thành ở Nhật Bản, kinh thành Naran được
xây dựng theo lối Trường An (kinh đô Đế quốc Đường). Các du học sinh
Nhật Bản học và làm quan cho Nhà Đường mấy chục năm đưa về tổ quốc các
kiến thức về văn hóa (bao gồm cả tôn giáo) học thuật, kỹ nghệ Trung Hoa.
Bước
vào khúc quanh của lịch sử của thời cận đại, để bảo vệ và xây dựng quốc
gia hùng cường người Nhật lại vượt trùng dương đến Tây Âu, Hoa Kỳ học
hỏi kỹ nghệ, triết học, chính trị, tổ chức và trang bị quân đội… Điều gì
cần cho quốc gia phú cường thì họ đều học lấy và đem về ứng dụng.
Bên
cạnh những nhà chính trị và ngoại giao xuất chúng, họ có nhà tư tưởng
Fukuzawa Yukichi (1835 – 1901). Ông không hoạt động chính trị, xây dựng
Keio nghĩa thục (sau là đại học Keio nổi tiếng), cổ vũ cho tư tưởng
"thoát Á", nói rằng người Nhật muốn hùng mạnh phải thoát ra khỏi cái
không gian bí bách "cổ lai hi" Á châu. Fukuzawa Yukichi kêu gọi người
Nhật chung số mệnh với nền văn minh phương Tây, hãy "cùng nhau bơi nổi
trên biển văn minh ấy, cùng nhau tạo ra một làn sóng văn minh ấy, cùng
nhau nỗ lực xây dựng và hưởng lạc những thành quả của nền văn minh ấy?".
Quyến luyến với những gì xưa cũ, chung vai sát cánh với Trung hoa -
Triều Tiên (khi đó) đồng nghĩa với việc bị phương Tây khinh rẻ và tạo
nên một "đại bất hạnh với người Nhật Bản".
Từ
thoát Á, dứt khoát đoạn tuyệt cái cũ kỹ mà chưa đầy 30 năm sau khi
Thiên Hoàng Minh Trị lên ngôi, Nhật Bản đã sánh vai với các cường quốc
phương Tây.
Còn
Việt Nam ta thì khác hẳn. Theo guồng quay lịch sử cứ cái gì người Việt
cần thì rồi sẽ tới, không theo chân các đoàn quân xâm lược thì cũng theo
những đoàn thuyền buôn, nhà truyền giáo. Người Việt ngồi nhà đợi người
ta đem đến rồi tiếp nhận tất thẩy theo lối cưỡng bách, thụ động.
Tâm
lý trông chờ, thụ động khiến cho nền triết học của người Việt không có
được tư tưởng đặc sắc, Đông – Tây mỗi thứ đều có chút ít, không chịu học
đến nơi đến chốn. Thời cận đại trong khi người Nhật đạp sóng gió cầu
học khắp phương Tây thì Đại Nam (quốc hiệu Việt Nam từ thời Minh Mạng)
coi Tây Dương là thứ rợ bạch quỷ, di mọi.
Khi
đó với Đại Nam với sự cai trị của Nguyễn Triều những giáo điều cũ kỹ
hằn sâu trong tư duy mỗi cá nhân rồi gông cùm tư duy xã hội bằng những
mỹ từ đạo đức của Nho gia; cái đẹp giả lỗi thời bao phủ lên một nội hàm
già cỗi và không còn sức sáng tạo, sức làm mới. Những nhà canh tân như
Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch… đã không biết cách để
có thể dấy lên một tinh thần cầu học, cổ vũ giới trí thức "cùng bơi trên
biển văn minh" phương Tây, quanh đi quẩn lại chỉ biết kiến nghị, kiến
nghị và kiến nghị.
Không đủ cơ tầng về giai cấp, về động lực xã hội cuối cùng đành "Nhất thất túc thành thiên cổ hận/Tái hồi đầu thị bách niên cơ" (4). Vèn vẹn 30 năm (kể từ 1858), Đại Nam mất nước, chung số phận với những quốc gia không thể "thoát Á".
Cho
đến ngày Phan Chu Trinh xướng “khai dân trí”, “chấn dân khí”, “hậu dân
sinh”; Phan Bội Châu lãnh đạo Đông du thì cũng chỉ là cầu học đánh trả
lại những ông thầy, học để thoát khỏi kiếp người dân thuộc địa.
Nói
đến Nhật Bản là nói đến sự khác biệt hẳn về tinh thần cầu học. Người
Nhật thì cầu học, chủ động học; người Việt thì sẵn có, bị buộc phải học
theo. Người Nhật học là vì tự cường quốc gia, người Việt học là để đánh
trả lại “những ông thầy”. Người Nhật học là để trở thành cường quốc,
người Việt học là để thoát khỏi kiếp bị trị hay những nghèo hèn cá nhân.
Người Nhật xuất dương là để du học, để chinh phục (thời trước 1945 là
bằng võ lực, giờ là để làm giàu), người Việt xuất dương là để kiếm việc
làm thuê, thoát khổ cho riêng mình.
Cho
tới tận sau năm 1945 tinh thần cầu học, vượt lên những áp lực lịch sử
lại một lần nữa đưa đến những kết quả khác nhau cho cả hai dân tộc Việt
Nam và Nhật Bản. Người Nhật thất bại để rồi thức tỉnh, còn người Việt?
Tương lai thịnh vượng sẽ đến với mảnh đất chữ S này nếu chúng ta dấy lên
và vun trồng một khát vọng cầu học vì thịnh vượng quốc gia!
------------------------------------------
Chú thích:
1. Gió
Tây thổi bạt gió Đông: Vào thời Cận Đại văn minh phương Tây đã lấn át
văn minh phương Đông, Tư Bản phương Tây xâm lược và biến các quốc gia
phương Đông thành thuộc địa.
2. Hạm
Đội Bắc Dương là thành quả của phong trào Dương Vụ, trước thời điểm
1895 đây là Hạm đội mạnh nhất Á Châu và đứng hàng thứ 8 thế giới.
3. "Dân dĩ thực vi thiên": Dân coi cái ăn như trời.
4. "Nhất
thất túc thành thiên cổ hận/Tái hồi đầu thị bách niên cơ" nghĩa là:
"Một bước lỡ, thành mối hận ngàn thu/Ngoảnh đầu nhìn lại cơ đồ trăm năm"
Hai câu thơ tuyệt mệnh của Nguyễn Trường Tộ nhà cải cách bậc nhất Việt
Nam thời cận đại.
Theo Văn Hóa Doanh Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Đây là blog cá nhân, mong các bạn chỉ đưa những nhận xét ôn hoà, không cực đoan, không kích động hận thù, và tôn trọng sự khác biệt, để không gây rắc rối, bất lợi cho chủ blog.