Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Tư liệu: Nhìn lại những nỗ lực của cựu Hoàng Đế Bảo Đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất cho đất nước và dân tộc Việt Nam

Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam

http://www.vietthuc.org/nhin-lai-nhung-no-luc-cua-cuu-hoang-de-bao-dai-trong-cuoc-dau-tranh-gianh-doc-lap-va-thong-nhat-cho-dat-nuoc-va-dan-toc-viet-nam/

Nhân Dịp Căm Bốt Làm Lễ Quốc Tang Cho Cựu Hoàng Sihanouk, Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
Bài này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 sắp tới. Yêu cầu này cũng đến không lâu khi Cựu Hoàng Norodom  Sihanouk của nước láng giềng thân cận nhất của Việt Nam, Vương Quốc Khmer hay quen thuộc hơn, Căm Bốt, vừa mới băng hà và thi thể còn được quàn tại hoàng cung chờ ngày quốc táng. Khi liên lạc với tôi, như để chắc ăn, một trong những vị này đã dùng cả điện thoại lẫn điện thư và để lại lời nhắn. Để đáp lễ, tôi cũng trả lời anh bằng điện thư trước rồi sau đó gọi điện thoại cho anh. Hai chúng tôi thảo luận với nhau rất lâu, không dưới một giờ đồng hồ về đề tài không mấy đơn giản nhưng vô cùng cần thiết này. Câu chuyện phải nói là vô cùng hào hứng giữa hai người không cùng thế hệ. Vì vậy thay vì viết một bài dưới hình thức khảo cứu, tìm hiểu hay bài học dùng trong lớp học như tôi thường làm, tôi xin được tóm tắt những gì chúng tôi đã chia sẻ với nhau cho bài viết bớt khô khan và nhẹ nhàng hơn hầu người bạn trẻ của tôi có thể đăng trên báo xuân của anh và các bạn của anh. Tôi cũng tránh không nêu tên anh và tổ chức của anh để bài viết có thể được dễ dàng phổ biến rộng rãi hơn cho những anh chị em thuộc những nhóm khác.
Nhu cầu cần được xét lại
Cựu Hoàng Bảo Đại, như sau này người ta thường gọi ông kể từ ngày ông thoái vị, thường bị nhiều người, Việt Nam có, ngoại quốc có, tệ hơn trong đó có cả các sử gia, máy móc theo nhau gọi là vua bù nhìn, tay sai của hết Tây đến Nhật, một ông vua chỉ ham ăn chơi đàng điếm, một thứ playboy do người Pháp nặn ra và đặt lên ngôi để dễ sai bảo. Ngay cả Sử Gia Trần Trọng Kim, khi được Học Giả Hoàng Xuân Hãn khuyên là nên gặp ông để tìm hiểu, lúc đầu cũng đã từ chối, gọi ông là “thằng ngốc”- “thằng ngốc, gặp nó làm gi?”- nhưng sau khi đã gặp rồi, nhà học giả kiêm sử gia này đã phải thay đổi hoàn toàn nhận định mà ông đã có từ trước. Ở đây tôi không bàn về chuyện này mà chỉ nói tới những gì Bảo Đại đã làm ngay từ khi vị cựu hoàng này còn là Đương Kim Hoàng Đế hay sau này là Cựu Hoàng và là Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam. Đây là những đóng góp tôi nghĩ là không nhỏ, nếu không nói là vô cùng lớn lao so với những đóng góp của những lãnh tụ khác của Việt Nam, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất cho quốc gia và dân tộc của ông bằng đường lối hòa bình, phi bạo lực. Cho cá nhân ông, những nỗ lực của ông đã không mang lại được những thành quả mà ông mong muốn. Ông đã không bảo vệ được di sản mà tổ tiên ông để lại, đã không xây dựng được một chế độ quân chủ lập hiến cho đất nước và thần dân của ông, điều ông muốn làm ngay từ đầu, không giữ được sự đoàn kết dân tộc mà ông trịnh trọng ghi trong chiếu thoái vị… Cuối cùng ông đã bị mọi người trách cứ, bỏ rơi và chết ở xứ người. Thần dân cũ của ông không mấy ai để ý tới sự qua đời của ông, trái với cái chết của một quốc vương khác trẻ hơn ông nhưng đồng thời với ông và cũng phải đối phó với vấn đề độc lập của quốc gia giống như ông sau này. Tôi muốn nói tới Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của xứ Căm Bốt. Giống nhưng khác với Bảo Đại ở đường lối đấu tranh vì trong đời ông, Sihanouk đã có thời dùng bạo lực để đàn áp đối lập, đã cộng tác với Khmer Đỏ, tổ chức Cộng Sản Căm Bốt chịu ảnh hưởng của Trung Cộng của các lãnh tụ Pol Pot và Ieng Sary, một thời đã mang họa diệt chủng đến cho xứ Căm Bốt khiến cho hàng triệu người dân của xứ này bị tàn sát bằng đủ mọi phương tiện với hàng núi xương được phát hiện, cho đến nay vẫn được bảo tồn coi như di tích của một thời đen tối nhất trong lịch sử của dân tộc Khmer. Còn Bảo Đại thì tuyệt đối không, kể cả việc ông đã từ chối không chấp nhận cho người Nhật đứng ra bảo vệ lãnh thổ, hoàng cung và an ninh cho chính ngôi vị và bản thân ông, chống lại cuộc nổi dậy của Việt Minh và những người Cộng Sản hối Tháng Tám năm 1945 theo trách nhiệm giữ gìn trật tự mà quốc tế giao cho họ. Lý do đơn giản là vì Bảo Đại không muốn dùng ngưới ngoại quốc để chống lại người Việt Nam, đồng bào của ông và thần dân của ông. Sihanouk đã được chính quyền và người dân Căm Bốt thương tiếc bằng những giọt nước mắt nhỏ xuống bên lề đường hay ở trên công viên trước hoàng cung ở Nam Vang hay ở nhiều nơi ở Căm Bốt. Người ta đã long trọng đón thi hài của ông từ Bắc Kinh được đưa về Nam Vang và long trọng làm quốc tang cho ông trong bốn ngày đầu tháng 2 năm 2013, vào lúc người Việt Nam ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại sửa soạn mừng đón Xuân Quý Tỵ.
Bảo Đại                               Phạm Quỳnh                             Ngô Đình Diệm
Nỗ lực canh tân đầu tiên với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm
Trở về với những cuộc tranh đấu của Cựu Hoàng Bảo Đại. Nhà vua đã bắt đầu sự nghiệp này của mình từ rất sớm, ngay từ khi ông mới từ Pháp trở về nước đế chính thức lên ngôi, sau hơn mười năm du học và hấp thụ được cả hai nền văn hóa Đông Tây qua sự rèn luyện của Cựu Khâm Sứ Charles về phía người Pháp và Cử Nhân Lê Như Lâm với tư cách là giảng tập hồi nhà vua còn ở Việt Nam rồi phụ đạo trong suốt thời gian ông ở Pháp về phía người Việt, chưa kể tới những gì ông học được ở các trường trung học Pháp nhất là ở trường Khoa Học Chính Tri ở Paris trong các năm 1922-1932, rèn luyện để làm vua và làm nguyên thủ quốc gia, điều những nhà lãnh đạo trong lịch sử Việt Nam sau này không có. Tranh đấu này mang tính cách của một cuộc cải cách và đã được khơi mào bởi những vận động của giới trí thức đương thời trước đó, đại diện là học giả Phạm Quỳnh của báo Nam Phong xuyên qua những bài viết của họ Phạm về một chế độ quân chủ lập hiến và về nhu cầu trả lại cho nhà vua quyền nội trị ở hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ và trả lại tổ quốc cho ngươòi Việt Nam. Mở đầu, ngay từ tháng 9 năm 1932 Phạm Quỳnh đã được cử làm Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng hàm Thượng Thư để trực tiếp làm việc với nhà vua. Tiếp theo, ngày 10 tháng 12 năm 1932 bằng một đạo dụ, nhà vua loan báo chính thức cầm quyền qua một chính thể quân chủ lập hiến kèm theo với nhũng dự án cải tổ guồng máy cai trị, hệ thống quan lại, tổ chức giáo dục và tư pháp, Viện Dân Biểu Trung Kỳ… Để thực thi những dự án này, ngày 2 tháng 5 năm 1933, như một biến cố bất ngờ, Bảo Đại lại ký một dụ khác loan báo tự mình chấp chánh và thay thế sáu vị thượng thư già bằng những nhân vật trẻ trong đó có Ngô Đình Diệm giữ Bộ Lại, Phạm Quỳnh giữ Bộ Học, Bùi Bằng Đoàn Bộ Hình…
Những việc làm đầu tiên kể trên của Bảo Đại, mặc dầu đã đem lại những tia hy vọng cho người dân ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ về một vận hội mới cho đất nước, đã không tồn tại lâu dài, một phần vì người Pháp cản trở vì trả lại quyền nội trị ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ là trở lại với Hòa Ước 1884 từ đó sẽ động tới các chức thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, một phần là do mâu thuẫn nội bộ giữa phe quan lại cũ và những trí thức mới, giữa những người đi vào hoạn lộ qua ngả quan trường và những ngưuời đi vào đường này qua đường tắt cũng như giữa hai nhân vật chủ cốt là Phạm Quỳnh và Ngô Dình Diệm mà nhà vua đặt hết tin tưởng vào coi như đôi xe bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau. Cuối cùng Ngô Đình Diệm đã từ chức, lôi cuốn theo một vài nhân vật mà nhà vua tin cậy khác. Thất bại trong cố gắng đầu đời, nhà vua trở thành “cô đơn, chỉ có một mình” để đến khi Hoàng Xuân Hãn nhắc ông là phải làm gì vì giới thanh niên mong đợi, nhà vua đã hỏi lại “Làm gì? Làm với ai?” Có điều ông vẫn không hoàn toàn mất hết hy vọng như sau này ông ghi trong hồi ký của ông: “Dù sao đi nữa, sự có mặt của tôi trên ngôi vẫn làm cho giới trẻ giữ được niềm hy vọng. Những người như Ngô Dình Diệm và Nguyễn Đệ lúc ấy sẽ lại ra giúp tôi theo chiều hướng này”  “Chắc ngưòi Pháp cho rằng tôi đã ngoan ngoãn biết nghe theo lời của họ. Dù họ có tin rằng họ đã thắng một cách dễ dàng, tôi cũng chẳng nên có lý do gì ngờ vực tôi. Tôi tin rằng nhân dân sẽ hiểu các hình thái buông thả bên ngoài của tôi, bởi cái hình thái ấy cho thấy sự thờ ơ, lơ là với nhiệm vụ của tôi…” và ông đã sống sót để chờ thời, không bị rơi vào số phận của các VuaThành Thái và Duy Tân mà ông hiểu rõ hơn ai hết cũng như bị mất tinh thần và trở thành một con người vô dụng.
Cơ hội mới: Nhật đảo chính Pháp, 9 tháng 3 năm 1945 – Chính Phủ Trần Trọng Kim hay là Cuộc Cách Mạng Phi Bạo Lực bị bỏ lỡ
Niềm hy vọng và sự kiên nhẫn của Bảo Đại kể trên đã không uổng. Mười hai năm sau, năm 1945, cơ hội lại đến với nhà vua một lần nữa. Lần này do người Nhật mang lại sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 lật đổ người Pháp của họ. Không còn con đường nào khác tốt hơn và cũng không để lỡ cơ hội bước đi nhũng bước khởi đầu, khi được người Nhật yêu cầu nhà vua đã cho công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Chính Phủ Trần Trọng Kim đã được thành lập với các bộ trưởng đều là những nhà tân học có khả năng, và đạo đức nổi tiếng đương thời đứng đầu bởi nhà giáo kiêm học giả Trần Trọng Kim, tác giả của những bộ sách Giáo Khoa Thư và nhất là bộ Việt Nam Sử Lược cho tới khi bài này được viết vẫn còn thông dụng, với sự cộng tác của những tên tuổi quen thuộc với học giới dương thời như Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Luật Sư Vũ Văn Hiền, Luật Sư kiêm nhà báo Phan Anh, Luật Sư Trần Văn Chương…
Mặc dầu không tồn tại lâu dài, tất cả chỉ được hơn bốn tháng, thực tế còn ngắn hơn nhiều, hoạt động trong hoàn cảnh chiến tranh, bị Việt Minh đánh phá ngay từ đầu rồi tuyên truyền phá hoại và thiếu thốn đủ mọi phương tiện, Chính Phủ Trần Trọng Kim đã tạo được những thành tích đáng ca ngợi. Cả một chương trình hành động nhằm xây dựng một nước Việt Nam mới đã được dự trù bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt từ soạn thảo hiến pháp, cải tổ thuế má, Việt Nam hóa giáo dục, thu hồi các nhượng địa, kể cả xứ Nam Kỳ, cứu đói, chống nạn mù chữ … đều đã đồng thời được thực hiện. Quốc hiệu Việt Nam với danh xưng đầy đủ là Đế Quốc Việt Nam đã được lựa chọn cùng với bài Đăng Đàn Cung làm quốc ca, cờ quẻ ly nền vàng ba sọc đỏ với hai sọc trên liền, sọc giữa đứt đoạn làm quốc kỳ. Danh xưng bộ trưởng để gọi những người đứng đầu các bộ được dùng để thay thế bằng danh xưng thượng thư của thời trước, các tên Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ thay thế cho các tên Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang nặng dấu vết của thời thuộc địa. Chương trình giáo dục bằng tiếng Việt được biết dưới tên Chương Trình Hoàng Xuân Hãn đã được soạn thảo và áp dụng và đã trở thành nền tảng cho nền giáo dục sau này, rõ hơn những năm đầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thời Quốc Gia Việt Nam và hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhi Cộng Hoà ở Miền Nam. Bài Đăng Đàn Cung tuy được chọn làm quốc ca nhưng trên thực tế thì bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được giới thanh thiếu niên, dưới sự hướng dẫn của các thày giáo ở các trường hát mỗi ngày một nhiều, đã được phổ biến hơn không phải chỉ ở miền Bắc và miền Trung mà luôn cả ở Miền Nam, miền đất cho đến khi Chính Phủ của Thủ Tướng họ Trần được thành lập vẫn chưa thực sự được trả về với lãnh thổ quốc gia,  để sau này trở thành quốc ca, một hiện tương đã nằm trong ký ức của những người thuộc thế hệ trẻ đương thời tới nay vẫn chưa hề phai nhạt.
Nỗ lực lần thứ hai của Bảo Đại tuy nhiên cũng không tồn tại được lâu dài. Thế Chiến Thứ Hai  chấm dứt với sự đầu hàng của Nhật Bản đã một lần nữa làm cho nhà vua phải bỏ dở. Lợi dụng cơ hội, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội và các tỉnh miền Bắc và áp lực những thành phần thiên Cộng khiến cho ngày 25 tháng 8 năm 1945 ông phải xuống chiếu thoái vị trao quyền cho Hồ Chí Minh và chính phủ lâm thời của ông này do Việt Minh lãnh đạo. Với Chiếu Thoái Vị, Bảo Đại đã trở thành nổi tiếng với câu nói: “ Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
Nỗ lực lần thứ ba: Hiệp Định Élysée và sự thành Lập Quốc Gia Việt Nam – Thâu Hồi xứ Nam Kỳ về cho lãnh thổ của dân tộc  
Bỏ qua những cố gắng của ông thời đầu thập niên ba mươi của thế kỷ trước và những cố gắng của ông sau khi ông tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1945 mà tôi tóm tắt như trên, những biến cố ít người được biết đến, công lao lớn nhất mà Hoàng Đế Bảo Đại đã thực hiện được cho những người Việt Quốc Gia không chấp nhận chế độ Cộng Sản hay không sống nổi với chế độ Cộng Sản, đã ở lại, đã về hay dự tính về những vùng kiểm soát của người Pháp vào nửa cuối thập niên 1940 là Hiệp Định Élysée mà ông đã đạt được ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau một thời gian dài thương thuyết, dưới hình thức trao đổi văn kiện giữa ông và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol. Với Hiệp Định Élysée Quốc Gia Việt Nam đã hình thành để những ai không chấp nhận chính quyền Cộng Sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo có chỗ trở về trong danh nghĩa của những công dân của một nước Việt Nam độc lập. Không có Bảo Đại, không có Quốc Gia Việt Nam, tất cả đều được nhìn hoặc như là theo Pháp để trở thành Việt gian làm bồi cho thực dân, đế quốc, hoặc là phải ở lại vùng Việt Minh kiểm soát để sớm muộn cũng bị loại trừ và tiêu diệt. Điều này đã xảy ra. Nói cách khác, Bảo Đại và Hiệp Định Élysée đã đem lại chính nghĩa cho những người đương thời không chấp nhận chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản. Chưa hết, với Hiệp Định Élysée, Bảo Đại đã thâu hồi lại xứ Nam Kỳ cho Tổ Quốc Việt Nam một cách hòa bình, không đổ máu mà Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đó qua những thỏa ước 6 tháng 3 rồi 14 tháng 9 năm 1946 hay hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau đã không làm được. Lễ thâu hồi đã chính thức được cử hành vào ngày 14 tháng 6 năm 1949. Với tư cách Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam, lần đầu tiên ông đã từ Đà Lạt, thủ đô tạm thời của ông về Saigon để long trọng đón phần đất đã từng là thuộc địa của Pháp từ năm 1862 trở về với lãnh thổ quốc gia và người dân Nam Kỳ đã trở thành công dân của Quốc Gia Việt Nam để cùng tham gia xây dựng lại đất nước dù là ở miền Nam, miền Trung hay miền Bắc. Một người dân miền Nam không lâu sau đó đã được bổ nhiệm đứng đầu miền Bắc. Đó là Đốc Phủ Sứ Nguyễn Văn Tâm, với danh vị Thủ Hiến Bắc việt. Đây là một sự thực không ai có thể chối cãi được và khi nói xấu ông người ta chỉ còn cách lơ đi không nói tới mà thôi.
Quốc Gia Việt Nam thường được hiếu là tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa, từ đó bị ngộ nhận là có lãnh thổ chỉ là lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam sau này tức từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Điều này không đúng. Bắt đầu từ thời điểm 14 tháng 6 năm 1949, khi Nam Kỳ trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam và cho đến khi Hiệp Định Genève được thông qua và trớ thành có hiệu lực, Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam của Quốc Trưởng Bảo Đại đã chính thức và hợp pháp kiểm soát những miền đất phía trên vĩ tuyến này, từ Lào Kay, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cáy… cho tới Hà Tiên và mũi Cà Mau, từ đồng bằng cho tới các cao nguyên do người Pháp chiếm giữ trước đó và trao trả.  Nói cách khác, Quốc Gia Việt Nam có lãnh thổ bao trùm đất đai của người Việt từ Bắc chí Nam, từ Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng xác nhận ở Hội Nghị San Francisco vào hai ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1951) tới các cao nguyên và miền núi, sau này, từ ngày 14 tháng 6 năm 1949, bao gồm luôn cả Miền Nam hay Nam Kỳ Lục Tỉnh thay vì chỉ có Miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống tức lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà về sau này. Cờ vàng ba sọc đỏ và bài Tiếng Gọi Thanh Niên sau này là Tiếng Gọi Công Dân đã được tung bay hay được hát ở kháp nơi hay đới với giới trẻ đương thời, được học sinh các trường trung và tiểu học, mới được mở cửa trở lại sau những ngày đầu của chiến tranh, hát lên buổi sáng trước khi vào lớp. Quốc kỳ này và quốc ca này đã được lựa chọn cùng thời với danh xưng Quốc Gia Việt Nam đã liên tục được duy trì qua các thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà của Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươoi năm tồn tại. Sau này cà hai vẫn được bảo tồn và bảo vệ ở Hải Ngoại coi như tượng hai biểu tương vừa thiêng liêng vừa thân thiết nhất của người Việt ở khắp nơi trên thế giới.  Một sinh hoạt bình thuờng đã thực sự hồi sinh. Các cơ cấu từ chính trị, hành chánh, quân sự, văn hóa, giáo dục mang màu sắc nhân bản vừa cổ truyền, vừa tân tiến theo trào lưu mới đã từng bước một thành hình và làm nền tảng cho các sinh hoạt ở Miền Nam trước khi bị những người Cộng Sản phá bỏ để thay thế bằng những tổ chức riêng của họ. Nên nhớ là với Thỏa Ước Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh ký với đại diện Cao Ủy Pháp ở Đông Dương Jean Sainteny và Tạm Ước 14 tháng 9 ký với Bộ Trướng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet vấn đề thống nhất xứ Nam Kỳ chưa được giải quyết. Nói cách khác Nam kỳ cho tới ngày 14 tháng 6, trước khi được Bảo Đại thu hồi vẫn thuộc quyền cai quản của người Pháp theo các Hòa Ước 1862 và 1874. Sau ngày 14 tháng 6 năam 1954, xứ này mới thực sự trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam, sau này là Việt Nam Cộng Hòa và luôn luôn nằm ngoài lãnh thổ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cho mãi đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đối với những người thuộc thế hệ sinh từ cuối thập niên 1920 và hai thập niên 1930, 1940, sự hình thành của Quốc Gia Việt Nam đã đem lại cho họ một nền giáo dục nhân bản và tiến bộ, vừa mang những đặc tính của thời xưa, vừa cởi mở, khai phóng để đón nhận những tinh hoa của thời đại thay vì lang thang không được đi học trong nhiều năm trong vùng “kháng chiến”. Nền giáo dục này đã cung cấp cho họ những điều kiện cơ bản để tiến xa hơn về sau này. Cũng vậy với sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt từ đầu thập niên 1950 mà người ta hầu như đã quên.
Đối với những người làm văn chương, âm nhạc và nghệ thuật sự thành lập Quốc Gia Việt Nam là thời kỳ mở dầu cho một giai đoạn phát triển mới vừa tiếp nối giai đoạn canh tân, trẻ trung, đầy sinh lực và lãng mạn của thời cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940 vừa tràn ngập hân hoan, hào hứng và tin tưởng vào cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất lãnh thổ và phát triển quốc gia dưới một chính quyền mới không Cộng Sản. Rõ rệt nhất trong hiện tượng này là trường hợp của các nhạc sĩ trong đó có Phạm Duy, Thẩm Oánh, Hùng Lân, Phạm Định Chương…, chỉ kể một vài tên tuổi quen thuộc.
Nói về Hiệp Định Élysée và những thỏa thuận giữa Bảo Đại và người Pháp trước đó, nhiều người cho rằng Cựu Hoàng đã vội vã và không đòi hỏi đúng mức những gì co thể đòi hỏi được. Các vị này chủ trương là phải đòi độc lập hoàn toàn. Điều này đúng nhưng không thực tế. Thời điểm của những năm 1948, 1949 với sự thắng thế mỗi ngày một rõ của Hồng Quân Trung Hoa ở Trung Quốc, cả hai phía người Pháp và Bảo Đại phải cấp tốc giải quyết vấn đề. Không những thế, đuổi Pháp đi thì ngay lập tức lấy gì để chống Việt Minh và ngay lập tức điều hành toàn thể mọi sinh hoạt của đất nước? Vấn dề không đơn giản. Người ta không thể điều đình mà không tương nhượng và dự trù cho những sự hợp tác tương lai.
Đóng góp cuối cùng: Hiệp Ước Paris 04 tháng 06 năm 1954 – một nền Độc Lập hoàn Toàn cho Quốc Gia Việt Nam
Hiệp Định Élysée chỉ là khởi đầu. Nền độc lập do hiệp ước này mang lại chưa thực sự hoàn toàn. Nhiều bước tiến khác còn phải được thực hiện. Bảo Đại đã tiếp tục và đã hoàn tất được công tác này với sự trợ giúp của những trí thức hiểu rõ nước Pháp và người Pháp, giỏi về chính trị và luật pháp có mặt ngay trên đất Pháp và giảng dạy ngay tại các đại học Pháp, những người có đầy đủ học vị, thực học và kinh nghiệm. Đích thân ông, ông đã phải sang Pháp, ở tại chỗ nhằm tự mình theo dõi và đôn đốc. Sau một tiến trình đàm phán gay go và lâu dài, hai hiệp ước đã thành hình. Với hiệp ước thứ nhất, Pháp công nhận hoàn toàn nền độc lập và chủ quyền toàn vẹn của Quốc Gia Việt Nam và qua hiệp ước thứ hai, Việt Nam thỏa thuận gia nhập Liên Hiệp Pháp. Đại Diện cho nước Pháp là Thủ Tướng Joseph Laniel và đại diện cho Việt Nam là Thủ Tướng Bửu Lộc. Ngày được ghi là 04 tháng 6 năm 1954 và địa điểm là Paris, thủ đô của nước Pháp. Bảo Đại đã không có được niềm hạnh phúc mà cả đời ông ấp ủ là được chứng kiến lễ ký kết những hiệp ước này. Ngày 7 tháng 5,  Điện Biên Phủ thất thủ, Hiệp Định Genève đang thành hình và cả hai văn bản đã bị vĩnh viễn xếp lại. Một lần nữa thành công của vị Hoàng Đế cuối củng của Triều Nguyễn đã không trọn vẹn. Điều ta nên nhớ là trong nỗ lực cuối cùng này, ông đã phải dời bỏ quê hương của ông sang Pháp để đích thân gặp các nhân vật lãnh đạo Pháp, kể cả Tổng Thống Auriol, theo dõi và đôn đốc các đại diện của mình, bị báo chí Pháp công kích vì đã đòi hỏi quá nhiều, sau này lại còn bị mang tiếng là ham sống ở nước ngoài không chịu về nước.  Dù sao với hai hiệp ước đề ngày 04 tháng 6 này, ông đã đem lại được những gì ông mong ước cho đất nước và cho thần dân Việt Nam của ông. Thiên Mạng của ông sau đó không còn nữa. Điều đáng tiếc là ông đã không còn trờ về quê hương của ông để làm công dân một nưóc độc lập như ông mong muốn được nữa. Người đời đã quên ông và thần dân của ông dã quên ông hay nếu nhớ tới ông chỉ là nhớ để trách cứ. Mà trách cứ thì luôn luôn dễ hơn là ghi nhận và nhất là ghi ơn. Người ta đã đòi hỏi ở ông quá nhiều mà quên mất một điều là dù là vua, là thiên tử, ông vẫn chỉ là con người, con người với tât cả mọi nhược điểm của con người, nhiều khi không phải do bản chất của người ấy mà do hoàn cảnh gây ra. Bảo Đại đã lên ngôi vào lúc chế độ quân chủ ở Việt Nam đang ở tình trạng suy đồi và bị tấn công từ nhiều phía trong lúc chủ trương dân chủ mỗi ngày mỗi thêm thắng thế. Người ta không biết có bao nhiêu giọt nước mắt đã nhỏ xuống cho ông khi ông qua đời như chúng đã được nhỏ xuống khi ông đọc chiếu thoái vị trước cửa Ngọ Môn hồi năm 1945. Phải chăng sau hơn nửa thế kỷ, hơn 52 năm sau, tất cả đều đã thay đổi? Có điều đất nước Việt Nam vẫn không hề tiến bộ hơn, lãnh thổ quốc gia mà Bảo Đại đã thâu hồi hay xác nhận chủ quyền và để lại cho những người kế vị ông đã bị hao mòn không ít,  và người dân Việt Nam bình thường vẫn chưa tìm lại được cuộc sống thanh bình, no ấm mà bất cứ một vị vua nào trong lịch sử nước nhà đều mong mỏi với một xã hội trong đó “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” như Trần Nguyên Đán đã miêu tả xã hội Đại Việt cuối thời Nhà Trần.
Huntington Beach, CA ngày 03 tháng 02 năm 2013
TS Phạm Cao Dương
Lịch Sử Nào Cho Tuổi Trẻ Việt Nam?

www.vietthuc.org

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Sẽ còn bao nhiêu Nguyễn Tuấn?

Mò mẫm trên facebook, tôi tình cờ tìm thấy link bài viết "Có ai biết Nguyễn Tuấn không?" của tác giả Ngô Nhân Dụng trên trang SBTN. Tò mò click vào link bài viết (ở đây: http://www.sbtn.tv/vi/blog/co-ai-biet-nguyen-tuan-khong-ngo-nhan-dung.html), tôi đọc, và sững sờ lặng đi. Câu chuyện có thật, và quá đau xót.

Đó là câu chuyện về một người vô gia cư gốc Việt vừa qua đời vì tai nạn, đến hôm nay 22/11 là được 49 ngày. Một người có tên là Tuấn, họ Nguyễn, sinh năm 1961, thua tôi 1 tuổi, và thuộc về cái thế hệ đau đớn của chúng tôi.

Một bài viết mà tôi nghĩ bất cứ ai là người VN, dù ở đâu trên thế giới này, cũng cần phải đọc!

Bài viết này khiến tôi nhớ lại một người bạn mà tôi đã gặp và trở thành thân thiết thời tôi còn học ở Úc. Đó là anh Tươi, hơn tôi 15 tuổi (sinh năm 1945, năm Ất Dậu), đã trải qua loạn lạc ở miền Bắc, rồi cuộc di cư vào Nam, là sĩ quan chế độ cũ, đi học tập cải tạo, ra tù tự mình tổ chức đi vượt biên, tự lái tàu đưa gia đình và người thân sang Úc.

Anh rất dễ thương, rất hay giúp đỡ mọi người, và thích tìm gặp người Việt để nói chuyện, đặc biệt là những người mới từ VN sang như bọn tôi lúc ấy. Thế nhưng, dù được anh giúp đỡ tận tình nhưng bọn tôi đều sợ gặp anh, chỉ vì một lý do: Anh suốt ngày nói về chuyện vượt biên, và nói rất nhiều mỗi khi nhắc đến những ký ức đen tối ấy. Như một nỗi ám ảnh không bao giờ quên được. Phụ nữ bị hãm hiếp. Trẻ con chết vì khát, vì đói. Nắng, gió, bão táp, nỗi tuyệt vọng, những ngày dài lê thê ở trên đảo .... Anh không quên một chi tiết nào. Anh nói, như để tự giải thoát.

Còn Tuấn Nguyễn trong bài viết này thì khác. Suốt mấy chục năm trời, anh vẫn giữ mãi trong lòng những điều bí ẩn mà mãi mãi sẽ không ai được biết. Như một người bạn của tôi, với nỗi đau khôn nguôi khi người anh lớn cùng chị dâu một đêm tối nọ giã biệt gia đình để đi vào đêm tối ... và mãi mãi biến mất: Cả chiếc tàu bị mất tích, không còn ai sống sót, không ai nghe tin tức gì cả, mấy chục con người biến vào khoảng không....

Kinh hoàng quá, cuộc chiến tranh mà chúng ta quen được nghe gọi là "thần thánh"

Tôi đang nghĩ, giá mà chúng ta bớt thần thánh đi được một chút, vâng chỉ một chút thôi, thì có lẽ rất nhiều sinh mạng đã không phải mất đi một cách oan uổng như vậy.

Rest in peace, anh Nguyễn Tuấn của tôi.

Sẽ còn bao nhiêu Nguyễn Tuấn, những người Việt bị tước mất quê hương ở khắp nơi trên thế giới này?
---------
Bài viết của ký giả David Monterro về Tuấn Nguyễn ở đây: http://www.dailynews.com/social-affairs/20141025/who-was-tuan-nguyen-friends-unravel-mystery-of-homeless-man-killed-in-la-accident 

Xin trích lại đoạn cuối rất cảm động:

For now, even in death, Nguyen is transient.

He’s currently housed in the county crypt with close to a couple hundred bodies. If nobody identifies and claims him, DNA samples will be collected and stored. Within two to four months, he would then be sent to a crematory in either Orange County or Whittier before being brought back and stored at the Los Angeles County Cemetery.

Those grounds are dotted with shade trees planted along a gently sloping patch of grass just a little ways removed from the white and blue building. Each December, the county conducts a small ceremony for those to be buried in a common grave.

Harvey said unless someone identifies him and gets a probate judge to issue an order to collect his remains, it will take a few years for him to eventually be buried in a simple site marked only by a plaque and the year he died: 2014.

Then the journey and transiency would likely end in December 2017. He’d be settled.

Nguyen would be home.
------
Ngay cả trong cái chết, thân phận của anh vẫn trôi nổi.
 ...
Cuộc phiêu lưu và thân phận nổi trôi của anh có lẽ sẽ kết thúc vào tháng 12 năm 2017. Lúc ấy anh sẽ  được ổn định.

Nguyễn sẽ về quê.

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Lảm nhảm về ... chính mình!

Viết về chính mình như thế này thì kỳ, nhưng không thể không viết, hic!

Tôi vừa nhận được một cú điện thoại của một người đồng nghiệp lớn tuổi hơn tôi, trong nghề dạy tiếng Anh. Anh ấy hỏi xin tôi 1 copy của cuốn luận án tiến sĩ mà tôi đã hoàn tất cách đây 17 năm, năm 1997.

Tại sao giờ này lại đòi đọc luận án của tôi? Dạ, là vì nó có liên quan rất mật thiết đến đề án 2020 (đề án ngoại ngữ gần 10 ngàn tỷ mà lâu lâu báo chí vẫn nhắc đến một cách mỉa mai đấy ạ).

Tôi hoàn thành luận án đó năm 1997, và bắt đầu nó vào năm 1994. Lúc ấy, VN bắt đầu mở cửa, và mọi người bắt đầu có nhu cầu đi học ở các nước tư bản. Mà muốn được nhận học thì điều đầu tiên là phải có chứng chỉ năng lực ngoại ngữ ở trình độ chấp nhận được. TOEFL 550 - paper-based - nếu đi Mỹ (thấp nhất), còn đi Anh hoặc Úc thì lúc ấy bắt đầu xuất hiện IELTS (rất mới, chỉ tồn tại chừng 1, 2 năm gì đó).

Lúc ấy, có cuộc tranh cãi nảy lửa về giá trị tương đương của 2 kỳ thi này. Miền Nam, chủ yếu là SG, thì đã biết về TOEFL từ trước năm 1975, nhưng miền Bắc thì chưa biết. Đến khi mở cửa thì do Mỹ cấm vận, không chơi với VN, nên chỉ có mấy nước như Anh, Úc mới có quan hệ, giao lưu, viện trợ giáo dục vv cho VN. Và họ đem theo cái test của họ, đó là IELTS (do Anh với Úc hợp tác để cạnh tranh với TOEFL, lúc ấy là kỳ thi gần như là duy nhất để đánh giá năng lực ngoại ngữ của sinh viên quốc tế).

Cuộc tranh cãi lúc ấy có thể tóm tắt như sau: Giới chuyên môn dạy tiếng Anh của miền Bắc, vừa xa lạ với TOEFL nên không có lý do gì để ủng hộ nó, lại vừa học theo sách của các thầy Anh - Úc nên rất chê TOEFLvì cho rằng nó là một kỳ thi thiên lệch, không đánh giá được chính xác năng lực của người học. Điều này cũng không hẳn là sai, vì TOEFL cũ không phải là một kỳ thi quá tốt - nó rất dễ luyện, nên điểm có thể cao nhưng năng lực có thể vẫn kém (tương tự với TOEIC cũ mà hiện nay VN vẫn đang sử dụng).

Còn dân miền Nam thì dù sao cũng đã quen với TOEFL và thấy nó ... hay, vả lại nếu muốn đi Mỹ thì không có cách nào khác hơn là phải học và thi TOEFL (cũ, trên giấy). Chưa kể, người ta lập luận rằng dù có luyện đi chăng nữa thì người học cũng phải có một trình độ nào đó mới có thể đạt đến số điểm đủ để đi học đại học, và TOEFL đã giúp các trường đại học Mỹ tuyển được người học phù hợp trên khắp thế giới, sao có thể xem là "dỏm" được? Ngược lại, IELTS với cách ra đề và chấm thi chủ quan (speaking và writing - và cả reading nữa, trong những phiên bản đầu của IELTS) thì điểm thi liệu có đáng tin cậy? Cứ thế, cứ thế, hai bên đả phá nhau kịch liệt.

Lúc ấy, mới ngoài 30 tuổi, tôi thấy rất muốn tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi: Nói tóm lại là ai đúng ai sai trong cuộc tranh luận nói trên, hay cả hai cùng đúng một phần và sai một phần? Mà nếu vậy, thì ai đúng cái gì? Và với câu hỏi ấy, tôi miệt mài làm việc trong mấy năm, để ra được một luận án khá thú vị, được các examiner đánh giá cao, chấm điểm đạt mức 1 trong 5 mức, nói chung là nổi đình đám lắm lắm!

Với luận án tiến sĩ như vậy, khi về tôi là người phụ nữ có bằng tiến sĩ đầu tiên trong ngành giảng dạy tiếng Anh, và là người thứ hai trên cả nước có bằng tiến sĩ của ngành này (người đầu tiên là một thầy ở trường ĐH Ngoại thương, hoàn tất trước tôi 1 năm), và là tiến sĩ đầu tiên của trường ĐH KHXH-NV, vì lúc ấy hiệu trưởng hiệu phó trường tôi chỉ mới có phó tiến sĩ (chưa "lên đời"). Và tất nhiên, tôi rất háo hức muốn làm điều này điều khác, muốn cải cách, muốn thay đổi, muốn, muốn .... Để rồi, do muốn nhiều quá (toàn muốn những việc đụng chạm) tôi đã "được" điều đi nơi khác (nói thẳng ra là: đi chỗ khác chơi!), để không được làm gì liên quan trực tiếp đến tiếng Anh nữa, mà làm .... kiểm định chất lượng, cho đến giờ là 10 năm trong nghề kiểm định.

Ở nghề mới ấy, tôi cũng bắt đầu từ đầu, đúng nghĩa là từ con số 0. Mà vẫn làm được, vì lúc ấy có ai biết làm đâu! Với lợi thế tiếng Anh, tôi mò mẫm tự học, rồi tham gia các lớp đào tạo ngắn ngày của khu vực và quốc tế, rồi vừa học vừa làm ... để đến giờ cũng trở thành một loại chuyên gia. Nói cho đúng thì background về đánh giá giáo dục (đánh giá người học) của tôi cũng giúp ích chút ít. Và, lịch sử lặp lại, giờ thì tôi lại (gần như) rời hẳn nghề kiểm định rồi, để ... lại mon men quay về với nghề tiếng Anh, hic!

 Quay lại, để thấy rằng những gì mình đặt ra cách đây 20 năm bây giờ mới được mọi người mò mẫm tìm đến, và hiểu chút ít. Cũng có nghĩa là chỉ riêng lĩnh vực của tôi, và lấy chính tôi làm chuẩn (!!!!) thì đã chậm ít nhất là 20 năm rồi. Vì, nói thẳng ra là thế, sau thời cải cách mạnh mẽ của cuối thập niên 80, đầu 90, thì VN lại quay ngược trở lại với quỹ đạo cũ. Lỡ tàu. Và lỡ nhiều lần lắm rồi, hu hu.

Tôi viết lăng nhăng quá, chỉ là để nguôi ngoai mà thôi. Không, nói cho đúng, tôi đã tiếc, đã xót xa cho mình, cho ngành tiếng Anh của tôi, nhưng cũng đã quên hẳn rồi. Giờ thì tôi dửng dưng lắm. Và hôm nay, nhận được cuộc gọi của người đồng nghiệp, tôi vừa thấy ... mừng vì giờ đây những gì mình nghiên cứu cách đây 20 năm đã bắt đầu có người quan tâm, nhưng ngược lại cũng thấy ... rất buồn, vì tôi đã sắp về hưu, đã rời nhà nước, và đã bỏ nghề một thời gian khá lâu rồi, uổng quá! Giá mà những đề xuất của tôi được nghe, thì ít nhất riêng ngành giảng dạy/kiểm tra đánh giá tiếng Anh của tôi đã đi được đến chỗ nào rồi chứ đâu phải lộn xộn rối rắm như thế này.

Buồn lắm, nhưng rồi tôi tự nghĩ, tôi cũng chẳng phải là người duy nhất rơi vào tình trạng này. Cha con ông nông dân giờ là đại tướng quân của Campuchia là một ví dụ. Chắc chắn là còn nhiều nữa.

Hèn gì mà ông TBT bảo, đến cuối thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở VN hay chưa. Nếu CNXH hoàn thiện được hiểu là mô hình Bắc Âu, thì tôi hoàn toàn đồng ý với ông TBT. Có cách nào đi nhanh hơn không nhỉ? À mà không được đi nhanh quá, đi trước mọi người ở VN là một bi kịch đấy!

Giống như tôi đây, các bạn ạ! Các bạn không tin ư? Đọc lại entry này một lần nữa nhé! :-D

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam không chỉ là một màn kịch chính trị (Reuters 13/11/2014)

Bài dịch, đã đăng trên VNTB, tại đây: http://www.ijavn.org/2014/11/cuoc-bo-phieu-tin-nhiem-tai-viet-nam.html
------

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam không chỉ là một màn kịch chính trị

Martin Petty
Vũ Thị Phương Anh (dịch)
* Tác giả gửi bài cho VNTB
 
(Reuters) – Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của quốc hội đối với các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam dường như là một việc làm vô nghĩa, vì các đại biểu tham gia bỏ phiếu hầu hết đều là đảng viên Cộng sản, và trong các lựa chọn để bỏ phiếu không có lựa chọn nào là "không tín nhiệm".  

Mặc dù sẽ chẳng có ai bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cuộc bỏ phiếu hôm thứ Bảy nhằm đánh giá hoạt động của của khoảng 50 quan chức hàng đầu cũng bắt đầu cho thấy trách nhiệm giải trình, đồng thời hé lộ chút thông tin hiếm hoi về những động thái bên trong của một đảng đang tự tìm lại chính mình sau gần bốn thập niên kiểm soát chặt chẽ .

Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng
, người ta đang đồn rằng có sự chia rẽ nội bộ trong quan điểm phải làm gì trong tình hình hiện nay để vẫn giữ nguyên thể chế. Theo các nhà phân tích, sự chia rẽ này tồn tại giữa một bên là phe giáo điều bảo thủ và bên kia là những cán bộ nghiêng về tư bản tự do hơn, trong nội bộ của một đảng vốn có truyền thống đồng thuận.

"
Cuộc bỏ phiếu này tạo ra một sự cởi mở nhằm giảm bớt căng thẳng, nhưng rốt cuộc nó chỉ làm cho ta thấy sự đấu đá nội bộ giữa các phe phái khác nhau," nhà phân tích chính trị nổi tiếng Nguyễn Quang A nhận định.

Dân chúng lâu nay đã âm ỉ bất bình về nạn tham nhũng, chiếm đoạt đất đai và một nền kinh tế nhà nước là chủ đạo nhưng kém hiệu quả. Những vấn đề này đã trở thành cố hữu trong nền kinh tế của Việt Nam sau một thời kỳ tăng trưởng bùng nổ, giờ đây đang mưng mủ như muốn vỡ ra trên diện rộng, đòi hỏi phải có các biện pháp cấp thiết nhằm khắc phục chúng.

Các chuyên gia
cho rằng không có thách thức nào đối với quyền lực của đảng Cộng sản trong tương lai gần. Quỹ đạo của nền kinh tế có quy mô 178 tỷ đô la này, cùng khả năng nó hiện thực hóa được tiềm năng trở thành một ngôi sao thị trường mới nổi, hoàn toàn phụ thuộc vào phe nào sẽ nắm thế thượng phong.

Cuộc bỏ phiếu diễn ra chỉ hơn một năm trước một đại hội
được tổ chức năm năm một lần, khi đảng Cộng sản lựa chọn người sẽ lãnh đạo bộ máy trong giai đoạn Việt Nam đang theo đuổi việc tham gia sâu hơn với thế giới phương Tây thông qua một loạt các hiệp định thương mại có tiềm năng làm thay đổi luật chơi, và đòi hỏi những nhượng bộ có thể sẽ không làm hài lòng các nhóm lợi ích khác nhau.

"Tôi không nghĩ có bất kỳ
sự bất đồng nào trong việc theo đuổi các thỏa thuận thương mại lớn", ông Nguyễn Quang A nói. "Sự bất đồng chủ yếu liên quan đến việc các thỏa thuận này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của các cá nhân và các nhóm đang nắm quyền mà thôi."


Sự chia rẽ trong quốc hội

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên diễn ra vào năm trước có thể đã phản tác dụng, vì kết quả của cuộc bỏ phiếu này càng củng cố những đồn đoán về sự cạnh tranh ngấm ngầm giữa Chủ tịch nước và Thủ tướng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
chỉ giành được sự ủng hộ của 42% tổng số các đại biểu quốc hội và bị gần 1/3 tổng số đại biểu chọn mức "tín nhiệm thấp”. Kết quả này trái ngược với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người giành được 330 phiếu tín nhiệm cao trên tổng số 498 đại biểu và chỉ nhận có 28 phiếu tín nhiệm thấp.

Các nhà phân tích tin rằng
ông Dũng sẽ tìm cách đưa ra một người kế nhiệm trước khi nghỉ hưu trước đại hội năm 2016,lẽ tăng cường ảnh hưởng của mình trong năm nay bằng việc thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng đang gặp khó khăn nợ xấu, đồng thời tư nhân hóa một phần hàng trăm doanh nghiệp nhà nước đang thua lỗ trầm trọng.

"
Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm năm nay diễn ra trong bối cảnh đang có tranh cãi nặng nề trong giới lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam trước Đại hội Đảng sắp đến ... như vậy, kết quả sẽ làm sáng tỏ ít nhiều v tình hình hiện nay của nền chính trị phe phái này", Phương Nguyễn, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế Washington cho biết.

"Người ta tin rằng
Thủ tướng đã hồi phục từ cú đánh của năm ngoái, nếu không phải là đã củng cố được quyền lực của mình. Chúng tôi sẽ chờ xem kết quả bỏ phiếu tín nhiệm phản ánh điều đó hay không."

Ông Dũng vừa gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm thứ Năm, có thể đã đạt được một số đòn bẩy quan trọng trong kế hoạch theo đuổi một mối quan hệ mạnh mẽ hơn với M và thách thức Trung Quốc trong cuộc tranh chấp về chủ quyền hàng hải gần đây.

Bế tắc với Trung Quốc có vẻ đã
làm sâu sắc thêm cuộc tranh luận trong nội bộ đảng về sự phụ thuộc vào nước láng giềng Trung Quốc. Điều này đã bộc lộ ra trong tháng Sáu vừa qua, khi 61 đảng viên và cựu đảng viên đã gửi một bức thư ngỏ đến Trung ương đảng Cộng sản và cho rằng sự thất bại trong việc thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc sẽ là "một tội ác đối với đất nước ".

(Editing by Robert Birsel)
 

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

“Tâm điểm” nào cho kỳ họp Quốc hội thứ 8 khóa 13?

Bài đã đăng trên Việt Nam Thời Báo, có biên tập lại đôi chút, tại đây: http://www.ijavn.org/2014/11/ky-hop-quoc-hoi-thu-8-tam-iem-nao.html

Dưới đây là bản gốc.
-----------


“Tâm điểm” nào cho kỳ họp Quốc hội thứ 8 khóa 13?

Chọn một điểm nhấn cho kỳ họp Quốc hội thứ 8 khóa 13 có lẽ sẽ không quá khó khăn. Bởi kỳ họp lần này có quá nhiều sự kiện đáng nhớ. Tất cả đều liên quan đến phát biểu của các vị đại biểu.

So với các nước phát triển, đại biểu quốc hội của Việt Nam hẳn không thể giỏi giang và chuyên nghiệp bằng, nhưng khả năng làm xôn xao dư luận với những phát biểu độc đáo thì không ai vượt qua được họ. Có thể kể ra khá nhiều trường hợp từ trước đến nay, nhưng chỉ riêng kỳ họp đang diễn ra cũng đủ cung cấp cho ta rất nhiều ví dụ như thế.

Ngay đầu kỳ họp, đại biểu Đỗ Văn Đương đã làm dư luận ngỡ ngàng. Khi được hỏi liệu Việt Nam có cần thay đổi hoặc điều chỉnh luật lệ gì để phù hợp với Công ước chống tra tấn của Liên hiệp quốc vừa tham gia hay không, ông cho biết hầu như không cần thay đổi gì, vì về cơ bản pháp luật Việt Nam đã tương thích với nội dung Công ước (!). Và để khẳng định chế độ lao tù của Việt Nam là vô cùng tốt đẹp, ông phán: “phạm nhân hiện nay còn sướng hơn sinh viên thời xưa[1]”.

Trong một phiên họp khác, khi nói về nghề luật sư của Việt Nam, cũng vẫn ông Đương đã khẳng định chắc nịch: “'thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền[2]”. Sau đó, bị Liên đoàn luật sư phản đối và yêu cầu đính chính, ông đã kiên quyết không rút lời vì cho rằng “dân biểu nói tiếng nói của dân và không phải truy cứu trách nhiệm gì cả[3]”. Phát biểu trên của ông cũng chẳng có gì sai, vì luật sư đi bào chữa thì đương nhiên phải có thù lao, chứ nếu không thì “sống bằng không khí mà đi bào chữa à?[4]

Cùng quan điểm đã là dân biểu thì có quyền tha hồ phát biểu mà không phải truy cứu trách nhiệm như ông Đương, trong cuộc họp sáng ngày 31/10/2014 đại biểu Thích Thanh Quyết, một thượng tọa đang giữ chức phó chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đã đề nghị nhà nước phải khen ngợi lực lượng quân đội và công an trong thời gian qua, và “phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên[5]”. 

Lời phát biểu đầy sát khí của vị tu sĩ Phật giáo này được trực tiếp truyền hình, khiến nhiều Phật tử lắc đầu suy nghĩ về thời kỳ mạt pháp. Một số người khác thì mỉa mai, quyết tâm xây dựng quân đội mạnh như Bắc Triều Tiên để làm gì khi quan hệ Việt – Trung luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định là tốt đẹp, bất chấp việc Trung Quốc liên tục mở rộng xây dựng trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam?[6]

Như thể cho rằng nghị trường của Việt Nam chưa đủ sôi động, ông nghị Hoàng Hữu Phước tung ra trên blog cá nhân một loạt bài công kích với lời lẽ thiếu tôn trọng đối với đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Sau khi ông Nghĩa gửi báo cáo vụ việc lên Đoàn đại biểu quốc hội TP HCM để đề nghị làm rõ vấn đề, ông Phước đã giải thích ông không nhắm vào cá nhân mà chỉ muốn viết những bài ấy để chỉ ra cái sai của ông Nghĩa mà thôi.

Cái sai mà ông Phước muốn chỉ ra liên quan đến phát biểu của ông Nghĩa rằng kinh tế Việt không thể thấy chân trời mới vì đang đi trên đường ray cũ. Ông Phước cho rằng phát biểu nói trên là sai hoàn toàn, vì đã là đường ray tất phải có sẵn điểm đến, và điểm đến ấy đã được hiến định là “con đường đi lên CNXH[7]”. Phát biểu này khiến mọi người nhớ đến một phát biểu khác rất nổi tiếng của vị lãnh đạo cao nhất của ĐCS Việt Nam, rằng “đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.

Cần nhắc lại là trước đây ông Phước  đã từng viết bài thóa mạ đại biểu Dương Trung Quốc, sau đó đã phải chính thức viết thư xin lỗi. Việc công kích ông Trương Trọng Nghĩa lần này khiến nhiều người đặt câu hỏi về sức khỏe tâm thần của ông Phước. Vấn đề tâm thần của đại biểu quốc hội trở thành một chủ đề được đưa ra thảo luận tại quốc hội.

Rất trào phúng, ông Trần Du Lịch cho rằng nếu cứ như hiện nay thì “một người mới từ bệnh viện tâm thần cũng ứng cử được[8]”. Đại biểu Phạm Khánh Phong Lan, Phó giám đốc Sở Y tế TP.HCM, thẳng thắn đề nghị các ứng viên phải được khám sức khỏe tâm thần. Các phát biểu này sau đó đã được đúc kết thành một tựa báo ngộ nghĩnh như một lời ám chỉ: “Đừng để người tâm thần ứng cử đại biểu Quốc hội[9].”

Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa 13 vẫn còn tiếp diễn trong vòng vài ngày tới; các đại biểu vẫn còn cơ hội đưa ra những phát ngôn độc đáo khác nữa. Báo chí lề phải, lề trái cả trong và ngoài nước vẫn tiếp tục rình và chộp những phát biểu độc đáo nhất để … giựt tít bán báo.

Dân chúng sẽ tiếp tục ngao ngán kêu lên: “Dân không bầu đại biểu quốc hội để … cãi lộn[10].” Những nhà báo có tâm huyết và nghiêm túc sẽ tiếp tục viết bài để chỉ ra nhu cầu cải thiện chất lượng đại biểu Quốc hội, để không còn tình trạng tâm điểm của các kỳ họp Quốc hội chỉ là những cuộc cãi vã vô bổ, chứ không phải là tranh cãi những vấn đề nóng hổi liên quan đến quốc kế dân sinh[11].

Để khi kỳ họp qua đi, tổng số nợ công trên đầu mỗi người dân vẫn chẳng giảm đi, đường phố ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vẫn biến thành sông sau mỗi cơn mưa lớn, sinh viên ra trường vẫn thất nghiệp, người dân vẫn chết trong đồn công an, trẻ em vẫn chết khi tiêm vắc-xin, và tai nạn giao thông vẫn là một nỗi kinh hoàng ….

Tất cả đều không có gì lạ.

Chỉ lạ một điều: Vì sao cho đến nay vẫn còn có những người thắc mắc và than phiền về tình trạng thanh niên thờ ơ với hiện tình của đất nước?