Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
http://www.vietthuc.org/nhin-lai-nhung-no-luc-cua-cuu-hoang-de-bao-dai-trong-cuoc-dau-tranh-gianh-doc-lap-va-thong-nhat-cho-dat-nuoc-va-dan-toc-viet-nam/
Phạm Cao Dương, TS
February 5, 2013One Bình Luận
February 5, 2013One Bình Luận
Nhân Dịp Căm Bốt Làm Lễ Quốc Tang Cho Cựu Hoàng Sihanouk, Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
Bài
này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều
người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị
em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của
Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn
lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất luôn cả oan khuất và cũng
nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 sắp tới. Yêu cầu này cũng đến không lâu
khi Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của nước láng giềng thân cận nhất của
Việt Nam, Vương Quốc Khmer hay quen thuộc hơn, Căm Bốt, vừa mới băng hà
và thi thể còn được quàn tại hoàng cung chờ ngày quốc táng. Khi liên lạc
với tôi, như để chắc ăn, một trong những vị này đã dùng cả điện thoại
lẫn điện thư và để lại lời nhắn. Để đáp lễ, tôi cũng trả lời anh bằng
điện thư trước rồi sau đó gọi điện thoại cho anh. Hai chúng tôi thảo
luận với nhau rất lâu, không dưới một giờ đồng hồ về đề tài không mấy
đơn giản nhưng vô cùng cần thiết này. Câu chuyện phải nói là vô cùng hào
hứng giữa hai người không cùng thế hệ. Vì vậy thay vì viết một bài dưới
hình thức khảo cứu, tìm hiểu hay bài học dùng trong lớp học như tôi
thường làm, tôi xin được tóm tắt những gì chúng tôi đã chia sẻ với nhau
cho bài viết bớt khô khan và nhẹ nhàng hơn hầu người bạn trẻ của tôi có
thể đăng trên báo xuân của anh và các bạn của anh. Tôi cũng tránh không
nêu tên anh và tổ chức của anh để bài viết có thể được dễ dàng phổ biến
rộng rãi hơn cho những anh chị em thuộc những nhóm khác.
Nhu cầu cần được xét lại
Cựu
Hoàng Bảo Đại, như sau này người ta thường gọi ông kể từ ngày ông thoái
vị, thường bị nhiều người, Việt Nam có, ngoại quốc có, tệ hơn trong đó
có cả các sử gia, máy móc theo nhau gọi là vua bù nhìn, tay sai của hết
Tây đến Nhật, một ông vua chỉ ham ăn chơi đàng điếm, một thứ playboy do
người Pháp nặn ra và đặt lên ngôi để dễ sai bảo. Ngay cả Sử Gia Trần
Trọng Kim, khi được Học Giả Hoàng Xuân Hãn khuyên là nên gặp ông để tìm
hiểu, lúc đầu cũng đã từ chối, gọi ông là “thằng ngốc”- “thằng ngốc, gặp nó làm gi?”-
nhưng sau khi đã gặp rồi, nhà học giả kiêm sử gia này đã phải thay đổi
hoàn toàn nhận định mà ông đã có từ trước. Ở đây tôi không bàn về chuyện
này mà chỉ nói tới những gì Bảo Đại đã làm ngay từ khi vị cựu hoàng này
còn là Đương Kim Hoàng Đế hay sau này là Cựu Hoàng và là Quốc Trưởng
của Quốc Gia Việt Nam. Đây là những đóng góp tôi nghĩ là không nhỏ, nếu
không nói là vô cùng lớn lao so với những đóng góp của những lãnh tụ
khác của Việt Nam, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất
cho quốc gia và dân tộc của ông bằng đường lối hòa bình, phi bạo lực.
Cho cá nhân ông, những nỗ lực của ông đã không mang lại được những thành
quả mà ông mong muốn. Ông đã không bảo vệ được di sản mà tổ tiên ông để
lại, đã không xây dựng được một chế độ quân chủ lập hiến cho đất nước
và thần dân của ông, điều ông muốn làm ngay từ đầu, không giữ được sự
đoàn kết dân tộc mà ông trịnh trọng ghi trong chiếu thoái vị… Cuối cùng
ông đã bị mọi người trách cứ, bỏ rơi và chết ở xứ người. Thần dân cũ của
ông không mấy ai để ý tới sự qua đời của ông, trái với cái chết của một
quốc vương khác trẻ hơn ông nhưng đồng thời với ông và cũng phải đối
phó với vấn đề độc lập của quốc gia giống như ông sau này. Tôi muốn nói
tới Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của xứ Căm Bốt. Giống nhưng khác với Bảo
Đại ở đường lối đấu tranh vì trong đời ông, Sihanouk đã có thời dùng bạo
lực để đàn áp đối lập, đã cộng tác với Khmer Đỏ, tổ chức Cộng Sản Căm
Bốt chịu ảnh hưởng của Trung Cộng của các lãnh tụ Pol Pot và Ieng Sary,
một thời đã mang họa diệt chủng đến cho xứ Căm Bốt khiến cho hàng triệu
người dân của xứ này bị tàn sát bằng đủ mọi phương tiện với hàng núi
xương được phát hiện, cho đến nay vẫn được bảo tồn coi như di tích của
một thời đen tối nhất trong lịch sử của dân tộc Khmer. Còn Bảo Đại thì
tuyệt đối không, kể cả việc ông đã từ chối không chấp nhận cho người
Nhật đứng ra bảo vệ lãnh thổ, hoàng cung và an ninh cho chính ngôi vị và
bản thân ông, chống lại cuộc nổi dậy của Việt Minh và những người Cộng
Sản hối Tháng Tám năm 1945 theo trách nhiệm giữ gìn trật tự mà quốc tế
giao cho họ. Lý do đơn giản là vì Bảo Đại không muốn dùng ngưới ngoại
quốc để chống lại người Việt Nam, đồng bào của ông và thần dân của ông.
Sihanouk đã được chính quyền và người dân Căm Bốt thương tiếc bằng những
giọt nước mắt nhỏ xuống bên lề đường hay ở trên công viên trước hoàng
cung ở Nam Vang hay ở nhiều nơi ở Căm Bốt. Người ta đã long trọng đón
thi hài của ông từ Bắc Kinh được đưa về Nam Vang và long trọng làm quốc
tang cho ông trong bốn ngày đầu tháng 2 năm 2013, vào lúc người Việt Nam
ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại sửa soạn mừng đón Xuân Quý Tỵ.
Bảo Đại Phạm Quỳnh Ngô Đình Diệm
Nỗ lực canh tân đầu tiên với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm
Trở
về với những cuộc tranh đấu của Cựu Hoàng Bảo Đại. Nhà vua đã bắt đầu
sự nghiệp này của mình từ rất sớm, ngay từ khi ông mới từ Pháp trở về
nước đế chính thức lên ngôi, sau hơn mười năm du học và hấp thụ được cả
hai nền văn hóa Đông Tây qua sự rèn luyện của Cựu Khâm Sứ Charles về
phía người Pháp và Cử Nhân Lê Như Lâm với tư cách là giảng tập hồi nhà
vua còn ở Việt Nam rồi phụ đạo trong suốt thời gian ông ở Pháp về phía
người Việt, chưa kể tới những gì ông học được ở các trường trung học
Pháp nhất là ở trường Khoa Học Chính Tri ở Paris trong các năm
1922-1932, rèn luyện để làm vua và làm nguyên thủ quốc gia, điều những
nhà lãnh đạo trong lịch sử Việt Nam sau này không có. Tranh đấu này mang
tính cách của một cuộc cải cách và đã được khơi mào bởi những vận động
của giới trí thức đương thời trước đó, đại diện là học giả Phạm Quỳnh
của báo Nam Phong xuyên qua những bài viết của họ Phạm về một chế độ
quân chủ lập hiến và về nhu cầu trả lại cho nhà vua quyền nội trị ở hai
xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ và trả lại tổ quốc cho ngươòi Việt Nam. Mở đầu,
ngay từ tháng 9 năm 1932 Phạm Quỳnh đã được cử làm Ngự Tiền Tổng Lý Văn
Phòng hàm Thượng Thư để trực tiếp làm việc với nhà vua. Tiếp theo, ngày
10 tháng 12 năm 1932 bằng một đạo dụ, nhà vua loan báo chính thức cầm
quyền qua một chính thể quân chủ lập hiến kèm theo với nhũng dự án cải
tổ guồng máy cai trị, hệ thống quan lại, tổ chức giáo dục và tư pháp,
Viện Dân Biểu Trung Kỳ… Để thực thi những dự án này, ngày 2 tháng 5 năm
1933, như một biến cố bất ngờ, Bảo Đại lại ký một dụ khác loan báo tự
mình chấp chánh và thay thế sáu vị thượng thư già bằng những nhân vật
trẻ trong đó có Ngô Đình Diệm giữ Bộ Lại, Phạm Quỳnh giữ Bộ Học, Bùi
Bằng Đoàn Bộ Hình…
Những
việc làm đầu tiên kể trên của Bảo Đại, mặc dầu đã đem lại những tia hy
vọng cho người dân ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ về một vận hội mới cho đất
nước, đã không tồn tại lâu dài, một phần vì người Pháp cản trở vì trả
lại quyền nội trị ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ là trở lại với Hòa Ước 1884 từ
đó sẽ động tới các chức thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, một phần là
do mâu thuẫn nội bộ giữa phe quan lại cũ và những trí thức mới, giữa
những người đi vào hoạn lộ qua ngả quan trường và những ngưuời đi vào
đường này qua đường tắt cũng như giữa hai nhân vật chủ cốt là Phạm Quỳnh
và Ngô Dình Diệm mà nhà vua đặt hết tin tưởng vào coi như đôi xe bổ
khuyết, hỗ trợ cho nhau. Cuối cùng Ngô Đình Diệm đã từ chức, lôi cuốn
theo một vài nhân vật mà nhà vua tin cậy khác. Thất bại trong cố gắng
đầu đời, nhà vua trở thành “cô đơn, chỉ có một mình” để đến khi Hoàng Xuân Hãn nhắc ông là phải làm gì vì giới thanh niên mong đợi, nhà vua đã hỏi lại “Làm gì? Làm với ai?” Có điều ông vẫn không hoàn toàn mất hết hy vọng như sau này ông ghi trong hồi ký của ông: “Dù
sao đi nữa, sự có mặt của tôi trên ngôi vẫn làm cho giới trẻ giữ được
niềm hy vọng. Những người như Ngô Dình Diệm và Nguyễn Đệ lúc ấy sẽ lại
ra giúp tôi theo chiều hướng này” “Chắc ngưòi Pháp cho rằng
tôi đã ngoan ngoãn biết nghe theo lời của họ. Dù họ có tin rằng họ đã
thắng một cách dễ dàng, tôi cũng chẳng nên có lý do gì ngờ vực tôi. Tôi
tin rằng nhân dân sẽ hiểu các hình thái buông thả bên ngoài của tôi, bởi
cái hình thái ấy cho thấy sự thờ ơ, lơ là với nhiệm vụ của tôi…”
và ông đã sống sót để chờ thời, không bị rơi vào số phận của các
VuaThành Thái và Duy Tân mà ông hiểu rõ hơn ai hết cũng như bị mất tinh
thần và trở thành một con người vô dụng.
Cơ hội mới: Nhật đảo chính Pháp, 9 tháng 3 năm 1945 – Chính Phủ Trần Trọng Kim hay là Cuộc Cách Mạng Phi Bạo Lực bị bỏ lỡ
Niềm
hy vọng và sự kiên nhẫn của Bảo Đại kể trên đã không uổng. Mười hai năm
sau, năm 1945, cơ hội lại đến với nhà vua một lần nữa. Lần này do người
Nhật mang lại sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 lật đổ người
Pháp của họ. Không còn con đường nào khác tốt hơn và cũng không để lỡ cơ
hội bước đi nhũng bước khởi đầu, khi được người Nhật yêu cầu nhà vua đã
cho công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam hiện đại. Chính Phủ Trần Trọng Kim đã được thành lập với các bộ
trưởng đều là những nhà tân học có khả năng, và đạo đức nổi tiếng đương
thời đứng đầu bởi nhà giáo kiêm học giả Trần Trọng Kim, tác giả của
những bộ sách Giáo Khoa Thư và nhất là bộ Việt Nam Sử Lược cho
tới khi bài này được viết vẫn còn thông dụng, với sự cộng tác của những
tên tuổi quen thuộc với học giới dương thời như Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn,
Luật Sư Vũ Văn Hiền, Luật Sư kiêm nhà báo Phan Anh, Luật Sư Trần Văn
Chương…
Mặc
dầu không tồn tại lâu dài, tất cả chỉ được hơn bốn tháng, thực tế còn
ngắn hơn nhiều, hoạt động trong hoàn cảnh chiến tranh, bị Việt Minh đánh
phá ngay từ đầu rồi tuyên truyền phá hoại và thiếu thốn đủ mọi phương
tiện, Chính Phủ Trần Trọng Kim đã tạo được những thành tích đáng ca
ngợi. Cả một chương trình hành động nhằm xây dựng một nước Việt Nam mới
đã được dự trù bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt từ soạn thảo hiến pháp,
cải tổ thuế má, Việt Nam hóa giáo dục, thu hồi các nhượng địa, kể cả xứ
Nam Kỳ, cứu đói, chống nạn mù chữ … đều đã đồng thời được thực hiện.
Quốc hiệu Việt Nam với danh xưng đầy đủ là Đế Quốc Việt Nam đã được lựa chọn cùng với bài Đăng Đàn Cung
làm quốc ca, cờ quẻ ly nền vàng ba sọc đỏ với hai sọc trên liền, sọc
giữa đứt đoạn làm quốc kỳ. Danh xưng bộ trưởng để gọi những người đứng
đầu các bộ được dùng để thay thế bằng danh xưng thượng thư của thời
trước, các tên Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ thay thế cho các tên Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ mang nặng dấu vết của thời thuộc địa. Chương trình giáo
dục bằng tiếng Việt được biết dưới tên Chương Trình Hoàng Xuân Hãn
đã được soạn thảo và áp dụng và đã trở thành nền tảng cho nền giáo dục
sau này, rõ hơn những năm đầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thời Quốc
Gia Việt Nam và hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhi Cộng Hoà ở Miền Nam. Bài Đăng Đàn Cung tuy được chọn làm quốc ca nhưng trên thực tế thì bài Tiếng Gọi Sinh Viên
đã được giới thanh thiếu niên, dưới sự hướng dẫn của các thày giáo ở
các trường hát mỗi ngày một nhiều, đã được phổ biến hơn không phải chỉ ở
miền Bắc và miền Trung mà luôn cả ở Miền Nam, miền đất cho đến khi
Chính Phủ của Thủ Tướng họ Trần được thành lập vẫn chưa thực sự được trả
về với lãnh thổ quốc gia, để sau này trở thành quốc ca, một hiện tương
đã nằm trong ký ức của những người thuộc thế hệ trẻ đương thời tới nay
vẫn chưa hề phai nhạt.
Nỗ
lực lần thứ hai của Bảo Đại tuy nhiên cũng không tồn tại được lâu dài.
Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt với sự đầu hàng của Nhật Bản đã một lần nữa
làm cho nhà vua phải bỏ dở. Lợi dụng cơ hội, Việt Minh cướp chính quyền ở
Hà Nội và các tỉnh miền Bắc và áp lực những thành phần thiên Cộng khiến
cho ngày 25 tháng 8 năm 1945 ông phải xuống chiếu thoái vị trao quyền
cho Hồ Chí Minh và chính phủ lâm thời của ông này do Việt Minh lãnh đạo.
Với Chiếu Thoái Vị, Bảo Đại đã trở thành nổi tiếng với câu nói: “
Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm thà
làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
Nỗ lực lần thứ ba: Hiệp Định Élysée và sự thành Lập Quốc Gia Việt Nam – Thâu Hồi xứ Nam Kỳ về cho lãnh thổ của dân tộc
Bỏ
qua những cố gắng của ông thời đầu thập niên ba mươi của thế kỷ trước
và những cố gắng của ông sau khi ông tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3
năm 1945 mà tôi tóm tắt như trên, những biến cố ít người được biết đến,
công lao lớn nhất mà Hoàng Đế Bảo Đại đã thực hiện được cho những người
Việt Quốc Gia không chấp nhận chế độ Cộng Sản hay không sống nổi với chế
độ Cộng Sản, đã ở lại, đã về hay dự tính về những vùng kiểm soát của
người Pháp vào nửa cuối thập niên 1940 là Hiệp Định Élysée mà ông đã đạt
được ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau một thời gian dài thương thuyết, dưới
hình thức trao đổi văn kiện giữa ông và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol.
Với Hiệp Định Élysée Quốc Gia Việt Nam đã hình thành để những ai không
chấp nhận chính quyền Cộng Sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo có chỗ trở về
trong danh nghĩa của những công dân của một nước Việt Nam độc lập. Không
có Bảo Đại, không có Quốc Gia Việt Nam, tất cả đều được nhìn hoặc như
là theo Pháp để trở thành Việt gian làm bồi cho thực dân, đế quốc, hoặc
là phải ở lại vùng Việt Minh kiểm soát để sớm muộn cũng bị loại trừ và
tiêu diệt. Điều này đã xảy ra. Nói cách khác, Bảo Đại và Hiệp Định
Élysée đã đem lại chính nghĩa cho những người đương thời không chấp nhận
chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản. Chưa hết, với Hiệp Định Élysée, Bảo Đại
đã thâu hồi lại xứ Nam Kỳ cho Tổ Quốc Việt Nam một cách hòa bình, không
đổ máu mà Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đó
qua những thỏa ước 6 tháng 3 rồi 14 tháng 9 năm 1946 hay hội nghị Đà Lạt
và Fontainebleau đã không làm được. Lễ thâu hồi đã chính thức được cử
hành vào ngày 14 tháng 6 năm 1949. Với tư cách Quốc Trưởng của Quốc Gia
Việt Nam, lần đầu tiên ông đã từ Đà Lạt, thủ đô tạm thời của ông về
Saigon để long trọng đón phần đất đã từng là thuộc địa của Pháp từ năm
1862 trở về với lãnh thổ quốc gia và người dân Nam Kỳ đã trở thành công
dân của Quốc Gia Việt Nam để cùng tham gia xây dựng lại đất nước dù là ở
miền Nam, miền Trung hay miền Bắc. Một người dân miền Nam không lâu sau
đó đã được bổ nhiệm đứng đầu miền Bắc. Đó là Đốc Phủ Sứ Nguyễn Văn Tâm,
với danh vị Thủ Hiến Bắc việt. Đây là một sự thực không ai có thể chối
cãi được và khi nói xấu ông người ta chỉ còn cách lơ đi không nói tới mà
thôi.
Quốc
Gia Việt Nam thường được hiếu là tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa, từ đó
bị ngộ nhận là có lãnh thổ chỉ là lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam sau
này tức từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Điều này không đúng. Bắt đầu từ thời
điểm 14 tháng 6 năm 1949, khi Nam Kỳ trở về với lãnh thổ của Quốc Gia
Việt Nam và cho đến khi Hiệp Định Genève được thông qua và trớ thành có
hiệu lực, Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam của Quốc Trưởng Bảo Đại đã chính
thức và hợp pháp kiểm soát những miền đất phía trên vĩ tuyến này, từ
Lào Kay, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cáy… cho tới Hà Tiên và mũi
Cà Mau, từ đồng bằng cho tới các cao nguyên do người Pháp chiếm giữ
trước đó và trao trả. Nói cách khác, Quốc Gia Việt Nam có lãnh thổ bao
trùm đất đai của người Việt từ Bắc chí Nam, từ Biển Đông với các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Trần
Văn Hữu đã long trọng xác nhận ở Hội Nghị San Francisco vào hai ngày 6
và 7 tháng 9 năm 1951) tới các cao nguyên và miền núi, sau này, từ ngày
14 tháng 6 năm 1949, bao gồm luôn cả Miền Nam hay Nam Kỳ Lục Tỉnh thay
vì chỉ có Miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống tức lãnh thổ Việt
Nam Cộng Hoà về sau này. Cờ vàng ba sọc đỏ và bài Tiếng Gọi Thanh Niên
sau này là Tiếng Gọi Công Dân đã được tung bay hay được hát ở kháp nơi
hay đới với giới trẻ đương thời, được học sinh các trường trung và tiểu
học, mới được mở cửa trở lại sau những ngày đầu của chiến tranh, hát lên
buổi sáng trước khi vào lớp. Quốc kỳ này và quốc ca này đã được lựa
chọn cùng thời với danh xưng Quốc Gia Việt Nam đã liên tục được duy trì
qua các thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà của Miền Nam Việt Nam trong suốt
hai mươoi năm tồn tại. Sau này cà hai vẫn được bảo tồn và bảo vệ ở Hải
Ngoại coi như tượng hai biểu tương vừa thiêng liêng vừa thân thiết nhất
của người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Một sinh hoạt bình thuờng đã
thực sự hồi sinh. Các cơ cấu từ chính trị, hành chánh, quân sự, văn hóa,
giáo dục mang màu sắc nhân bản vừa cổ truyền, vừa tân tiến theo trào
lưu mới đã từng bước một thành hình và làm nền tảng cho các sinh hoạt ở
Miền Nam trước khi bị những người Cộng Sản phá bỏ để thay thế bằng những
tổ chức riêng của họ. Nên nhớ là với Thỏa Ước Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 năm
1946 Hồ Chí Minh ký với đại diện Cao Ủy Pháp ở Đông Dương Jean Sainteny
và Tạm Ước 14 tháng 9 ký với Bộ Trướng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet
vấn đề thống nhất xứ Nam Kỳ chưa được giải quyết. Nói cách khác Nam kỳ
cho tới ngày 14 tháng 6, trước khi được Bảo Đại thu hồi vẫn thuộc quyền
cai quản của người Pháp theo các Hòa Ước 1862 và 1874. Sau ngày 14 tháng
6 năam 1954, xứ này mới thực sự trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt
Nam, sau này là Việt Nam Cộng Hòa và luôn luôn nằm ngoài lãnh thổ của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cho mãi đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đối
với những người thuộc thế hệ sinh từ cuối thập niên 1920 và hai thập
niên 1930, 1940, sự hình thành của Quốc Gia Việt Nam đã đem lại cho họ
một nền giáo dục nhân bản và tiến bộ, vừa mang những đặc tính của thời
xưa, vừa cởi mở, khai phóng để đón nhận những tinh hoa của thời đại thay
vì lang thang không được đi học trong nhiều năm trong vùng “kháng
chiến”. Nền giáo dục này đã cung cấp cho họ những điều kiện cơ bản để
tiến xa hơn về sau này. Cũng vậy với sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt
từ đầu thập niên 1950 mà người ta hầu như đã quên.
Đối
với những người làm văn chương, âm nhạc và nghệ thuật sự thành lập Quốc
Gia Việt Nam là thời kỳ mở dầu cho một giai đoạn phát triển mới vừa
tiếp nối giai đoạn canh tân, trẻ trung, đầy sinh lực và lãng mạn của
thời cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940 vừa tràn ngập hân hoan, hào
hứng và tin tưởng vào cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất lãnh thổ
và phát triển quốc gia dưới một chính quyền mới không Cộng Sản. Rõ rệt
nhất trong hiện tượng này là trường hợp của các nhạc sĩ trong đó có Phạm
Duy, Thẩm Oánh, Hùng Lân, Phạm Định Chương…, chỉ kể một vài tên tuổi
quen thuộc.
Nói
về Hiệp Định Élysée và những thỏa thuận giữa Bảo Đại và người Pháp
trước đó, nhiều người cho rằng Cựu Hoàng đã vội vã và không đòi hỏi đúng
mức những gì co thể đòi hỏi được. Các vị này chủ trương là phải đòi độc
lập hoàn toàn. Điều này đúng nhưng không thực tế. Thời điểm của những
năm 1948, 1949 với sự thắng thế mỗi ngày một rõ của Hồng Quân Trung Hoa ở
Trung Quốc, cả hai phía người Pháp và Bảo Đại phải cấp tốc giải quyết
vấn đề. Không những thế, đuổi Pháp đi thì ngay lập tức lấy gì để chống
Việt Minh và ngay lập tức điều hành toàn thể mọi sinh hoạt của đất nước?
Vấn dề không đơn giản. Người ta không thể điều đình mà không tương
nhượng và dự trù cho những sự hợp tác tương lai.
Đóng góp cuối cùng: Hiệp Ước Paris 04 tháng 06 năm 1954 – một nền Độc Lập hoàn Toàn cho Quốc Gia Việt Nam
Hiệp
Định Élysée chỉ là khởi đầu. Nền độc lập do hiệp ước này mang lại chưa
thực sự hoàn toàn. Nhiều bước tiến khác còn phải được thực hiện. Bảo Đại
đã tiếp tục và đã hoàn tất được công tác này với sự trợ giúp của những
trí thức hiểu rõ nước Pháp và người Pháp, giỏi về chính trị và luật pháp
có mặt ngay trên đất Pháp và giảng dạy ngay tại các đại học Pháp, những
người có đầy đủ học vị, thực học và kinh nghiệm. Đích thân ông, ông đã
phải sang Pháp, ở tại chỗ nhằm tự mình theo dõi và đôn đốc. Sau một tiến
trình đàm phán gay go và lâu dài, hai hiệp ước đã thành hình. Với hiệp
ước thứ nhất, Pháp công nhận hoàn toàn nền độc lập và chủ quyền toàn vẹn
của Quốc Gia Việt Nam và qua hiệp ước thứ hai, Việt Nam thỏa thuận gia
nhập Liên Hiệp Pháp. Đại Diện cho nước Pháp là Thủ Tướng Joseph Laniel
và đại diện cho Việt Nam là Thủ Tướng Bửu Lộc. Ngày được ghi là 04 tháng
6 năm 1954 và địa điểm là Paris, thủ đô của nước Pháp. Bảo Đại đã không
có được niềm hạnh phúc mà cả đời ông ấp ủ là được chứng kiến lễ ký kết
những hiệp ước này. Ngày 7 tháng 5, Điện Biên Phủ thất thủ, Hiệp Định
Genève đang thành hình và cả hai văn bản đã bị vĩnh viễn xếp lại. Một
lần nữa thành công của vị Hoàng Đế cuối củng của Triều Nguyễn đã không
trọn vẹn. Điều ta nên nhớ là trong nỗ lực cuối cùng này, ông đã phải dời
bỏ quê hương của ông sang Pháp để đích thân gặp các nhân vật lãnh đạo
Pháp, kể cả Tổng Thống Auriol, theo dõi và đôn đốc các đại diện của
mình, bị báo chí Pháp công kích vì đã đòi hỏi quá nhiều, sau này lại còn
bị mang tiếng là ham sống ở nước ngoài không chịu về nước. Dù sao với
hai hiệp ước đề ngày 04 tháng 6 này, ông đã đem lại được những gì ông
mong ước cho đất nước và cho thần dân Việt Nam của ông. Thiên Mạng của
ông sau đó không còn nữa. Điều đáng tiếc là ông đã không còn trờ về quê
hương của ông để làm công dân một nưóc độc lập như ông mong muốn được
nữa. Người đời đã quên ông và thần dân của ông dã quên ông hay nếu nhớ
tới ông chỉ là nhớ để trách cứ. Mà trách cứ thì luôn luôn dễ hơn là ghi
nhận và nhất là ghi ơn. Người ta đã đòi hỏi ở ông quá nhiều mà quên mất
một điều là dù là vua, là thiên tử, ông vẫn chỉ là con người, con người
với tât cả mọi nhược điểm của con người, nhiều khi không phải do bản
chất của người ấy mà do hoàn cảnh gây ra. Bảo Đại đã lên ngôi vào lúc
chế độ quân chủ ở Việt Nam đang ở tình trạng suy đồi và bị tấn công từ
nhiều phía trong lúc chủ trương dân chủ mỗi ngày mỗi thêm thắng thế.
Người ta không biết có bao nhiêu giọt nước mắt đã nhỏ xuống cho ông khi
ông qua đời như chúng đã được nhỏ xuống khi ông đọc chiếu thoái vị trước
cửa Ngọ Môn hồi năm 1945. Phải chăng sau hơn nửa thế kỷ, hơn 52 năm
sau, tất cả đều đã thay đổi? Có điều đất nước Việt Nam vẫn không hề tiến
bộ hơn, lãnh thổ quốc gia mà Bảo Đại đã thâu hồi hay xác nhận chủ quyền
và để lại cho những người kế vị ông đã bị hao mòn không ít, và người
dân Việt Nam bình thường vẫn chưa tìm lại được cuộc sống thanh bình, no
ấm mà bất cứ một vị vua nào trong lịch sử nước nhà đều mong mỏi với một
xã hội trong đó “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” như Trần Nguyên Đán đã miêu tả xã hội Đại Việt cuối thời Nhà Trần.
Huntington Beach, CA ngày 03 tháng 02 năm 2013TS Phạm Cao Dương
Lịch Sử Nào Cho Tuổi Trẻ Việt Nam?
www.vietthuc.org