HÃY ĐỌC LỜI AI ĐIẾU CHO
MỘT GIAI ĐOẠN VĂN NGHỆ MINH HỌA
NGUYỄN MINH CHÂU
Văn nghệ, Hà Nội, số 49 & 50 (5-12-1987)
Là
một người sáng tác, chắc tôi cũng giống như nhiều anh em sáng tác khác, có thói
quen vừa viết vừa tự quan sát, nhìn theo cái ngòi bút của mình có lúc đầy hào
sảng có lúc lại đầy đắn đo hồi hộp lẫn e ngại chạy trên mặt tờ giấy định mệnh.
Chao ôi, để bụng không nói ra thì thôi chứ nói ra cái chuyện này
nó vui lắm, mà nó cũng buồn lắm, có đôi khi buồn đến thối ruột! Thú thật chừng
ba bốn năm trở lại đây tôi cứ nổi lên nhũng cơn ngán giấy bút, hay so sánh mình
với những anh em bạn bè cầm bút một cách suôn sẻ bình thản, được trời đất ban
cho một cái tạng nhà văn luôn luôn sẵn sàng thích nghi với mọi thứ lý luận và
luật lệ văn học, họ thật sướng, viết ra trang giấy mà trong bụng chẳng bao giờ
có điều gì phải sợ sệt, lo lắng, như một người bao giờ cũng sống đĩnh đạc, cứ
thẳng đường chính rộng lớn mà đi; còn mình thì y như một kẻ gian phi lúc nào
cũng như đang lén lút thu giấu cái gì quốc cấm trong cạp quần hay dưới áo. Nghĩ
mà buồn quá, nghề giấy bút nó chẳng nuôi gì được mình mà chỉ thấy nó hành mình.
Có lúc - nói ra thật lẩm cẩm - tôi lại hay đem so sánh mình với
các nhà văn của những đất nước hàng trăm năm bình ổn, các nhân vật của họ phải
chịu đựng nỗi đau khổ dằn vặt thật là sang trọng, chứ đâu như cái đám nhân vật
của mình, không những cái đau khổ, hoạn nạn mà cả cái vui, cái hạnh phúc của họ
nó cũng nhem nhuốc, nhớn nhác, tội nghiệp quá! Hỡi ôi, bao giờ nhân vật của
mình mới được sang trọng, để cho mình cũng sang trọng lây!
Có lúc tôi lại đem công việc của chúng ta so sánh với công việc
của các nhà tiền chiến cầm bút trước cách mạng, gọi là các nhà văn hiện thực
phê phán. Ví dụ như ông Nam Cao chẳng hạn. Có lần ông ấy la lối, hô hoán ầm lên
rằng thiên hạ bít hết lối của ngòi bút ông ấy. Viết cây chuối hay con chó hoặc
kẻ say rượu đều phạm húy, đều có người đe đánh, đe đốt nhà. Bị o ép đến vậy
tưởng không viết được gì, thế mà cuối cùng, cả một đời cầm bút của Nam Cao
trước cách mạng số năm có là bao nhiêu đâu, vậy mà đủ để lại khá nhiều, nhất là
có thể có cái quyền viết rất thực, bao nhiêu lẽ đời, sự đời, bao nhiêu khuôn
mặt người đời thực đến thế. Chí
Phèo thực đến thế. Thật là
vừa được viết vừa được nói. Chứ như đám chúng tôi, từ nhà văn trẻ đến lớp nhà
văn già được chăm sóc chăn dắt kỹ lưỡng quá đi mất. Sao lại như vậy nhỉ, sau
bốn chục năm nhìn trở lại những nhà văn tiêu biểu của nền văn học phần đông nếu
không phải là tất cả, đều có tì vết trong lịch sử đời cầm bút? Rồi thì từ đấy
bắt buộc sinh ra một cái thói quen không biết bắt đầu từ lúc nào mà tôi nghĩ nó
rất thảm đối với tư cách của một người nghệ sĩ, hễ cầm bút là phải nghĩ đến né
tránh, che chắn, rào đón, đối phó. Có vẻ tuồng như mỗi nhà văn mỗi khi ngồi
trước trang giấy là cùng một lúc phải cầm hai cây bút: một cây bút để viết cho
người đọc bình thường, cho đời, một cây bút khác viết cho đạo, lo việc che chắn, viết cho lãnh đạo văn nghệ đọc. Mà cái ngòi
bút thứ hai này – buồn thay – các nhà văn cầm lâu ngày để tự bảo vệ mình cho
nên cũng lắm kinh nghiệm, mà cũng tài hoa lắm!
Quả thật tôi không có tài rào đón, che chắn nhưng cầm bút viết văn
đến một lúc ngồi nghĩ lại cũng tự nhiên sinh ra giận mình đến phát chán mình,
chán cả cho đồng nghiệp, bè bạn. Điều đáng buồn nhất là những người phải xoay
trở, vặn vẹo cây bút, phải làm động tác giả nhiều nhất là những nhà văn có tâm
huyết, có tài, muốn văn học phải có cái gì của văn học, chứ không muốn văn học chỉ
là một sự minh họa. Trong khi đó những cây bút minh họa, những tác phẩm minh
họa hoặc ca ngợi một chiều thì lại thoải mái, người viết cầm bút thoải mái mà
chẳng có gì phải luồn lách, phải đắp đậy, rào đón, chỉ phải cái nó công thức và
sơ lược, nó nhạt, và càng ngày người đọc càng thấy nó giả, mỗi ngày người đọc càng thấy rõ ở những tác phẩm minh họa
và ca ngợi một chiều một sự giả dối không thể nào bào chữa nổi, đắp đậy nổi, so
với cuộc đời thực bên ngoài.
Tôi không hề nghĩ rằng mấy chục năm qua nền văn học cách mạng –
nền văn học ngày nay có được là nhờ bao nhiêu trí tuệ, mồ hôi và cả máu của bao
nhiêu nhà văn – không có những cái hay, không để lại được những tác phẩm chân
thực. Nhưng về một phía khác, cũng phải nói thật với nhau rằng: mấy chục năm qua,
tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, văn học minh họa, với những
cây bút chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã
có sẵn mà chúng ta quy cho đấy đã là tất cả hiện thực đời sống đa dạng và rộng
lớn. Nhà văn chỉ được giao phó công việc như một cán bộ truyền đạt đường lối
chính sách bằng hình tượng văn học sinh động, và do nhiều lý do từ những ngày
đầu cách mạng, các nhà văn cũng tự nguyện tự giác thấy nên và cần làm như thế
(thậm chí có phần nào các nhà văn mới đi theo cách mạng và kháng chiến còn coi
đó là cái mới, là hoàn cảnh "lột xác"). Từ đấy rồi trở thành thói
quen. Thói quen của một người vốn quen đi trong một hành lang hẹp, vừa hẹp vừa
thấp. Lần lượt bắt đầu là các nhà văn tiền chiến rồi hết lớp người cầm bút này đến lớp người cầm bút khác, với một khả năng thích nghi
hết sức ghê gớm, các nhà văn đã thích nghi với văn học minh họa như thích nghi
với cách sống gian khổ, thiếu thốn trong chiến tranh. Những nhà văn tuy đều cảm
thấy thiếu thốn và bức bối nhưng lại tự dụ dỗ mình và khuyên nhủ lẫn nhau tự
bạt chiều cao cho thấp đi khỏi chạm trần, tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để
khỏi kềnh càng, để đi lại được thoải mái trong cái hành lang kia.
Tuy vậy, cứ mỗi lần hết chiến tranh chuyển sang hòa bình hoặc cứ
lâu lâu sau một số năm, đường hướng minh họa và tình hình mất dân chủ trong văn
nghệ lại làm dấy lên những vụ này vụ khác. Những người "lính gác" lại
có dịp "khép lại" và không rời mắt khỏi từng người, đặc biệt là những
người có tài hay có tật và không ngừng thuyết phục với tất cả cũng như với từng
người rằng cái hành lang kia là tất cả thế giới của văn nghệ cách mạng. Không
khí để thở, bầu trời để ngắm, đất dưới chân để đi lại chỉ có thế và đấy là tất
cả thế giới minh họa, ở trong đó nhà văn tha hồ vùng vẫy, sáng tạo và phát huy
tài năng. Trong nghệ thuật hội họa châu Âu chẳng đã từng để lại những tác phẩm
danh họa về lịch sử tôn giáo và đời các thánh, thực sự những tác phẩm hội họa
cổ điển sẽ sống đời đời ấy là những tác phẩm minh họa. Tôi nghĩ rằng đường lối
chính sách của Đảng, kể cả những cái sáng suốt đúng đắn cũng như cái sai lầm
đang được điều chỉnh trong từng thời kỳ bao giờ cũng có thể soi rọi, giúp nhà
văn nhìn thấy những vấn đề thực tế rất sâu xa của đất nước, gợi ý cho nhà văn
những suy nghĩ, chiêm nghiệm quý báu. Nhà văn như một người trinh sát cuộc đời,
vậy thì việc tìm hiểu sự hình thành những đường lối chính sách chính là sự tìm
hiểu việc đời từ trong quá trình.
Ý nghĩa tác dụng của đường lối, chính sách đối với văn nghệ là như
vậy. Tôi nghĩ rằng khi nhà nghệ sĩ đứng trước một sự vật, nảy ra ý tưởng minh
họa khi tìm thấy ở nó tràn ngập cảm xúc về cái chân lý và cái đẹp.
Thất thiệt to lớn nhất của văn nghệ minh họa của ta là từ đấy
những nhà văn đánh mất cái đầu và những tác phẩm văn học đánh mất tính tư
tưởng, – nghĩa là những tư tưởng mới và độc đáo mang tính khái quát cuộc đời
của riêng từng nhà văn. Như một người đánh mất phần hồn chỉ còn phần xác, hoặc
chỉ còn cái phần hồn do nhà nước bao cấp. Chúng ta không thiếu những nhà văn có
lòng và có thực tài nhưng cũng không vì thế hàng chục năm qua có khi họ phải ôm
hai thứ đó trong người như hai thứ tội nợ, vì thế mà đâm ra sợ chính mình. Sau
một vài lần viết ra bị vấp váp, bị thổi còi, bị phê phán trên báo, được tập thể
góp ý xây dựng, nhà văn ngồi một mình giữa vắng vẻ ngâm nga: "Chút lòng
trinh bạch từ nay xin chừa", nhưng làm sao mà chừa được. Con người
nghệ sĩ là thế đấy, dù cho rằng anh ta hèn đớn vẫn không chừa được thói quen
khao khát sáng tạo, lời nói thật và chút lòng với đời. Nó như một thứ bản chất thiên phú, hay một thứ
bản chất giời đày?
Rồi vẫn được
viết, vẫn cầm bút, vừa muốn phô diễn tư tưởng, chõ miệng ra giữa hai hàng chữ để cảnh tỉnh với đời một cái
điều gì đó tiên cảm thấy trong đời sống nhưng lại muốn giấu đi, gói nó trong
bao lần lá, rào nó sau bao tầng chữ. Văn chương gì mà muốn viết một câu trung
thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can
ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có
bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm? Chúng ta vắng thiếu
những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa
đám đàn em: "Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết
sợ!", nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã,
giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế
giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết
hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. Có người lại biến cái sợ cái
hèn thành một thứ vật trang sức và thách thức, vật biểu hiện của sức sống dai
dẳng. Giữa chồng sách trước mặt tôi lúc này là hai tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam của nhà thơ Xuân Diệu. Một nhà thơ
lớn như Xuân Diệu làm một công việc rất công phu là bình giá và giải thích
những giá trị văn học cổ điển của nước nhà, mà sao Xuân Diệu phải rào đón, dựng
lên bao nhiêu là lớp phên giậu để tự che chắn? Sao mà khổ vậy? Rồi thì dù không
muốn tôi cũng phải nói rằng sự độc đoán và chế áp của lãnh đạo văn nghệ trong
nhiều năm qua đã khiến cho những nghệ sĩ chân chính luôn luôn gắn bó với cách
mạng, với Đảng, suốt đời cảm thấy phạm tội.
Cũng trong một con người cầm bút, có khi cái phần bất tài nhảy lên
bục tao đàn để múa may, còn cái phần tài năng thì trùm chăn nằm chờ ngày xuống
mồ!
Con đường của một cây bút trẻ hăm hở phấn đấu hết mình để trở
thành nhà văn cũng là con đường phải giết đi cái phần nhà văn trong con người
mình, con đường tự mài mòn đi mọi cá tính và tính trung thực trong ngòi
bút!
Chúng ta phải nhìn lại kỹ càng cái hành trình văn học đã đi qua
bằng con mắt thông minh, không phiến diện và thực sự cầu thị, để một mặt không
phủ định tất cả, một mặt khác, với một tinh thần tự phê phán thấy cho được
rằng: có thể đôi khi với động cơ tốt chúng ta đã trói buộc lẫn nhau trong một
thời gian hơi quá dài của mấy lớp người cầm bút, trong khi lại đòi hỏi phải có
những tác phẩm lớn. Thật là mâu thuẫn. Chả khác nào trói lại rồi bảo đố mày bay
lên!
Muốn có tác phẩm lớn, nhưng liệu chúng ta có chấp nhận nổi những
tính cách ngòi bút của một nghệ sĩ với tầm tư tưởng lớn mà tôi nghĩ bao giờ nó
cũng quá chói sáng, với những điều nói thật không phải bao giờ cũng dễ nghe,
thậm chí có thể làm đảo lộn mọi quan niệm với những nỗi dằn vặt, băn khoăn lớn
chung quanh cái bề mặt nhãn tiền và tận chín tầng đất sâu của cuộc sống con
người trên dải đất này.
Và tác phẩm lớn là gì?
40 triệu dân của đất nước Tây Ban Nha được nhân loại biết đến và
kính trọng bằng một lão gàn vĩ đại vì mang trên mình tất cả tính ảo tưởng muôn đời
của toàn thể nhân loại.
Và gần một tỷ người của đất nước Trung Hoa được nhân loại thấu
hiểu sâu sắc bằng một anh chàng nông dân A.Q.
Cả Don Quichotte lẫn A.Q chẳng hề làm xấu Tây Ban Nha lẫn Trung
Quốc, mà làm đẹp cho cả hai đất nước này.
Tài năng, nhất là những thiên tài bao giờ cũng như là của bắt
được, của trời cho, ai mà biết được bao giờ thì họ đến, nhưng cũng như một
Nguyễn Du, họ đến cũng trong khắc khoải nhân sinh, chỉ có điều đau đớn hơn mọi
chúng ta, và cũng trong lầm lũi cát bụi cuộc đời thường. Nhiệm vụ của chúng ta
là chuẩn bị bầu không khí cho họ thở, cho họ sống, đừng giết chết họ, đừng ghen
tỵ với họ, đừng làm họ sống dở chết dở mà vẫn phải nở nụ cười, đừng làm cho họ
thui chột trí tuệ lẫn tình cảm, đừng khiến họ cuối cùng trở thành chúng ta.
Công việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ của Hội Nhà văn hôm nay không
phải là chuẩn bị cái lò ấp hàng trăm hàng ngàn quả trứng gà trứng vịt, mà là
chuẩn bị cho những tư cách nghệ sĩ và tài năng lớn ra đời.
Nói thế có bốc đồng chăng, cao vọng quá chăng? Nhưng chúng ta phải
đốt lên ngọn lửa cao vọng! Chẳng lẽ mãi mãi thế hệ nhà văn Việt Nam chúng ta
vẫn cứ yên tâm sản xuất ra toàn những sản vật không bao giờ được ngó đến trong
nền văn học thế giới. Chẳng lẽ Việt Nam ngày nay chỉ hưởng của thiên hạ mà
không làm ra được cái gì góp vào của chung của thiên hạ? Chẳng lẽ các nhà văn
Việt Nam đi ra ngoài mãi mãi chỉ có chung một cái tên riêng là nhà văn Việt
Nam? Để rồi quay trở về, con hát mẹ khen hay? Và đàn con cứ mãi mãi suốt đời tự
hào được người mẹ ở trong nhà khen ngợi!?
Tôi nghĩ rằng trước hay sau, ai cũng trở thành bảo thủ, lạc hậu,
cũ kỹ cả. Bảo thủ về già là một quy luật. Trong khoa học, đến một bộ óc mới mẻ
như Einstein về già còn bảo thủ cơ mà! Cái mới nào mà chả cũ đi, – trên dòng
thác biến đổi qua thời gian? Cái chính là chúng ta biết cười xòa chợt nhận ra
mình đã sai lầm, đã bảo thủ. Chúng ta sẽ trở nên sáng suốt hơn sau cái tiếng
cười ấy. Bởi vì sau đó chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ giơ tay ngăn cản cái
mới, cái tiến bộ, mà sẽ xuất hiện một quyết tâm làm mới lại mình với thái độ chân
thành, xởi lởi, cởi mở, để cùng nhau xây dựng một giai đoạn văn học và văn nghệ
mới.
Vừa qua chúng ta có in lại tuyển tập của các nhà văn đàn anh. Giở
những bản tổng kết những đời văn như còn đẫm mồ hôi ấy, điều khôn ngoan cuối
cùng rút ra là không chừa một ai, tất cả chúng ta phải biết lễ phép trước quy
luật đào thải. Những cái gì đích thực văn chương thì nó còn, không tái bản,
không tuyển tập, báo chí không đề cao lên nó cũng còn. Nó còn như đất cát, cây
cỏ, như ca dao, tục ngữ, như cuộc sống bình dị và bền vững luôn luôn còn đó.
Còn những gì phe phẩy, ưỡn ẹo hoặc cứ nhảy cẫng lên thì ngược lại, nó mất, cát
sỏi lại trở về cát sỏi. Tôi đọc những tuyển tập thấy rất tiếc cho những tài
năng. Giá mấy chục năm qua văn nghệ không chủ yếu lấy minh họa làm đường hướng,
đừng có cái hành lang hẹp và thấp ấy, cả cái bầu không khí nghi ngờ lơ lửng
trên đầu các văn nghệ sĩ, mà chủ trương khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng
tạo và chấp nhận đa dạng, chấp nhận sáng tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương
tri của các nhà văn, không nửa tin nửa nghi ngờ và đề phòng, để cho văn nghệ
một khoảng đất rộng rãi hơn nữa thì các nhà văn và những nghệ sĩ sáng tạo đến
nay đã đầu bạc phơ, kẻ còn người mất, họ còn để lại cho chúng ta nhiều hơn thế
này. Và không khéo những cái gì và những người mà lâu nay chúng ta kêu ca, lên
án hoặc cố tình quên đi lại là những cái, những người còn lại, còn để lại.
Sự còn lại mất đi của số phận những tác phẩm văn học cũng như
những đời văn trong độ lùi thời gian bao giờ cũng ngầm chứa đựng một sự lựa
chọn đầy huyền diệu và công bằng.
Hình như nhân dân, cái nhân dân Việt Nam đầy trầm tĩnh và kỳ tài
mà hình ảnh đã được nghệ thuật điêu khắc từ hàng trăm năm nay chạm khắc lên
khối gỗ thành bức tượng ngàn mắt ngàn tay, đến hôm nay vẫn không ngừng sáng
suốt lựa chọn giúp cho chúng ta những cái gì đích thực của nghệ thuật, giữa
những đồ giả, để bỏ vào cái gia tài văn hóa của đất nước để lại từ Đinh, Lê,
Lý, Trần. Và cũng nhân dân, cái nhân dân Việt Nam dũng cảm sau mỗi lần đánh
giặc xong lại lặng lẽ và lầm lụi làm ăn đang giơ bàn tay chai sạn vẫy chúng ta
lại, kể cho chúng ta nghe về cái nhất thời ở trong cái muôn đời, cái độc ác nằm
giữa cái nhân hậu, cái cực đoan nằm giữa tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhẩy
cẫng lên lấc láo giữa cái dung dị, thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần
trách nhiệm đầy suy nghĩ.
Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 49 & 50 (5-12-1987)