Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

Bài đăng lại: Về bài thơ Khúc Thụy Du (Du Tử Lê 2010)



















http://www.dutule.com/D_1-2_2-99_4-325/ve-bai-tho-khuc-thuy-du.html

-----

Khi biến cố Tết Mậu Thân, 1968 xẩy ra, đó cũng là lúc cuộc tình của tôi và một nữ sinh viên trường Dược, ở Saigòn cũng khởi đầu.


Đầu tháng 3-1968, tôi bị chỉ định đi làm phóng sự một tiểu đoàn TQLC đang giải toả khu Ngã tư Bảy Hiền. 

Lúc đó, cả thành phố Saigòn vẫn còn giới nghiêm. Trên đường đi, từ cục TLC ở đầu đường Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè tới khu Ngã tư Bảy Hiền, đường xá vắng tanh. Khi gần tới ngã tư Bảy Hiền, ngoại ô Saigòn, tôi thấy trên đường đi còn khá nhiều xác chết. Đó là những xác chết không toàn thây, bị cháy nám; rất khó nhận biết những xác chết là dân chúng, binh sĩ hay bộ đội CS. 

Khi tới gần khu ngã tư Bảy Hiền, dù không muốn nhìn, tôi vẫn thấy rất nhiều mảnh thịt người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh tay văng, vướng trên giây điện…Rất nhiều căn nhà trúng bị bom, đạn. Đổ nát. Tôi cũng thấy những con chó vô chủ gậm chân, tay xương người bên lề đường… Tất cả những hình ảnh ghê rợn này đập vào mắt tôi, cùng mùi hôi thối tẩm, loang trong không khí.
Khi tới vùng giao tranh, tôi gặp người trách nhiệm cuộc hành quân giải toả khu chợ Bảy Hiền. Đó là thiếu tá Nguyễn Kim Tiền. Anh vốn là một bạn học thời trung học của tôi. Tiền cho biết, đơn vị của anh đang ở giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. hai bên rình rập nhau, như trò cút bắt, để tranh giành từng gian hàng, từng ngôi nhà… Anh nói tôi phải rời khỏi khu chợ, lập tức. Vì anh không thể bảo đảm sinh mạng cho tôi, dù là bạn cũ…. 

Trên đường về, cái khung cảnh hoang tàn, đổ nát với xương thịt người vung vãi khắp nơi, cùng với mùi người chết sình thối…khiến tôi muốn nôn oẹ, một lần nữa lại gây chấn động dữ dội trong tôi…
Giữa tháng 3 – 1968, nhà văn Trần Phong Giao, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn, gọi điện thoại vào phòng Báo Chí, cục TLC, hỏi tôi có thể viết cái gì đó, cho Văn số tục bản. 

Gọi là “tục bản” bởi vì sau số Xuân, khi biến cố mồng 1 Tết xẩy ra, báo Văn ngưng xuất bản. Lý do, các nhà phát hành không hoạt động. Đường về miền tây cũng như đường ra miền Trung bị gián đoạn. Saigòn giới nghiêm. Tuy nhiên, ông nói, hy vọng ít ngày nữa, giao thông sẽ trở lại -  - Thêm nữa, không thể để Văn đình bản quá lâu.

Sau khi nhận lời đưa bài cho Trần Phong Giao, tôi mới giật mình, hốt hoảng.

Tôi nghĩ, giữa tình cảnh ấy, tôi không thể đưa ông một bài thơ tình, hay một chuyện tình. Mặc dù thơ tình hay chuyện tình là lãnh vực của tôi thuở ấy. Nhưng, tôi thấy, nếu tiếp tục con đường quen thuộc kia, tôi sẽ không chỉ không phải với người đọc mà, tôi còn không phải với hàng ngàn, hàng vạn linh hồn đồng bào, những người chết tức tưởi, oan khiên vì chiến tranh nữa… 

Cuối cùng, gần hạn kỳ phải đưa bài, nhớ lại những giờ phút ở ngã tư Bảy Hiền, tôi ngồi xuống viết bài thơ ghi lại những gì mục kích trên đường đi.

Viết xong, tôi không tìm được một nhan đề gần, sát với nội dung! 

Bài thơ dài trên 100 câu. Nhưng khi Văn đem đi kiểm duyệt, bộ Thông Tin đục bỏ của tôi gần 1/ 3 nửa bài thơ. 

Thời đó, tôi viết tay, không có bản phụ, nên, sau này khi gom lại để in thành sách, tôi không có một bản nào khác, ngoài bản in trên báo Văn (đã kiểm duyệt.) 

Tuy còn mấy chục câu thôi, nhưng nội dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài thơ nói về thảm cảnh chiến tranh. Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại cho bài thở của tôi những câu cực kỳ “phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ - bày quả rỉa xác người - (của tươi đời nhượng lại) - bữa ăn nào ngon hơn – làm sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác người chưa rữa – trên thịt người chưa tan – trên cánh tay chó gậm – trên chiếc đầu lợn tha…” vân vân…  

Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người? 

Như đã nói, thời gian ra đời của bài thơ cũng là khởi đầu của cuộc tình giữa tôi và một sinh viên đại học Dược…Tôi lấy một chữ lót trong tên gọi của người con gái này, cộng với chữ đầu, bút hiệu của tôi, làm thành nhan đề bài thơ. Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai hoạ, một tuyệt lộ. 

Bài thơ ấy, sau đó tôi cho in trong tuyển tập “Thơ Du Tử Lê (1967-1972). 

Cuối năm, tập thơ được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thi ca, 973. 

Năm 1983, tôi cho tái bản cuốn thơ này sau khi được một độc giả du học tại Mỹ trước năm 1975, cho lại. Cô nói, tôi phải hứa in lại và dành bản đầu tiên cho cô…

Sau đấy, một buổi tối, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi ở quán Café Tay Trái (toạ lạc ngay ngã tư đường Trask và Fairview.) Ông nói, ông mới phổ nhạc bài “Khúc Thuỵ Du.” Ông cho tôi quyền chọn người hát. Ông nhấn mạnh:

“Tôi có thể chỉ cho người đó hát…”

Thời gian đó, trong số bằng hữu giúp tôi điều hành Café Tay Trái, có nhạc sĩ Việt Dzũng. Lúc nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi, cũng là lúc Việt Dzũng có mặt; đang chuẩn bị cho chương trình ca nhạc buổi tối. Tôi giới thiệu hai người với nhau.

Khi ca khúc “Khúc Thuỵ Du” ra đời dạng casette, với tiếng hát của Việt Dzũng, tôi mới biết, nhạc sĩ Anh Bằng chỉ lọc, lựa một số câu thơ liên quan tới tình yêu mà, không lấy một câu thơ nào nói một cách cụ thể về chiến tranh, chết chóc… Chết chóc hay chiến tranh được hiểu ngầm, như một thứ background mờ nhạt.

Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn còn có người lên tiếng phản đối sự giản lược nội dung bài thơ của tôi vào một khía cạnh rất phụ: Khía cạnh tình yêu trong ca khúc “Khúc Thuỵ Du”…

Nhưng, hôm nay, sau mấy chục năm, nhìn lại, tôi thấy, ông cũng có cái lý của ông…  

(1-30-2010.)  
KHÚC THỤY DU 
1.
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời 

như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được 

như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay 

trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình 

trên mặt đất nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi ? 

2.
mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng không khép
bàn tay nàng không thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài 

ngực tôi đầy nắng lửa
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
thụy ơi và thụy ơi 

tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
thụy ơi và thụy ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết 

tình yêu như ngọn dao
anh đâm mình, lút cán
thụy ơi và thụy ơi

 không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể 

anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển

(3-68)

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Đăng lại bài cũ: Không thể "chết dưới tay TQ"! (18/6/2011)

 http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=132766&zoneid=1

Không thể "chết dưới tay TQ"! (18/6/2011)


Tíến sĩ Vũ Thị Phương Anh 
Một ngày trước ngày Father’s Day 19/6/2011, cũng là ngày cộng đồng mạng Việt Nam chọn làm ngày biểu tình chống Trung Quốc lần thứ 3 liên tiếp trong mấy tuần qua, báo Tuổi Trẻ đăng bài cuối cùng của loạt phóng sự về tình trạng báo động chảy máu nguyên liệu thô từ Việt Nam sang Trung Quốc.


Khai thác mủ cao su ở Việt Nam.  Mỗi năm Việt Nam xuất cảng  hàng trăm ngàn tấn mủ cao su với mức thuế bằng 0%, chủ yếu là xuất sang Trung Quốc. (Hình: TTXVN)

Như những bài khác trong loạt bài này, phóng sự “Ồ ạt xuất thô ‘vàng trắng’”cung cấp những thông tin khiến người đọc không thể không bức xúc. Việt Nam hiện đang xuất khẩu mỗi năm hàng trăm ngàn tấn mủ cao su với mức thuế bằng … 0%, chủ yếu là xuất sang Trung Quốc. Khi cần sử dụng trong sản xuất, các doanh nghiệp trong nước nhập cao su từ Thái Lan với mức thuế là … 5%. Nhưng không thể trách các doanh nghiệp xuất khẩu mủ cao su sang Trung Quốc, vì nếu họ bán trong nước họ sẽ phải chịu thuế giá trị gia tăng 5%!
Những chính sách kinh tế kỳ lạ như trên đang góp phần đẩy nền kinh tế Việt Nam đến chỗ kiệt quệ và có nguy cơ lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc. Nhưng kinh tế chỉ là một trong rất nhiều rủi ro trong quan hệ giữa Việt Nam với anh bạn “16 chữ vàng” to xác mà xấu tính này.

Chưa cần kể ra những sự kiện đang làm nóng dư luận Việt Nam và quốc tế trong thời gian qua – tham vọng độc chiếm biển Đông của Trung Quốc, đẩy Việt Nam vào tình trạng lãnh hải thường xuyên bị đe dọa, ngư trường bị thu hẹp bởi người “đồng chí tốt” của mình. Chỉ xét ngay trong cuộc sống đời thường, cũng đủ thấy người Việt đang bị rất nhiều tai họa về sức khỏe và sự an toàn tính mạng ngày đêm rình rập quanh mình.

Phóng sự với tựa đề “Tràn lan đồ chơi Trung Quốc độc hại”  trên báo Thanh Niên Online ngày 14/6/2011 cho biết bất chấp những cảnh báo về đồ chơi độc hại của nhiều tổ chức trong và ngoài nước, đồ chơi Trung Quốc không rõ nguồn gốc vẫn đang được bày bán khắp nơi tại Sài Gòn với giá rất rẻ, từ vài ngàn đến vài chục ngàn. Theo bài báo, trong số những đồ chơi này, có khá nhiều loại trông giống các loại đã được báo chí Trung Quốc cảnh báo là có vấn đề về an toàn sức khỏe cho người sử dụng.

Phần kết của phóng sự này đưa ra nhận định: “Với tình trạng không quản nổi đầu vào và cũng không thu hồi nổi khi phát hiện sản phẩm có nhiễm độc như nói trên, đặc biệt là đối với hàng Trung Quốc, nhiều chuyên gia cảnh báo, VN có nguy cơ biến thành “bãi rác độc” của thế giới” [xin đọc là: “của Trung Quốc”].

Từ đồ chơi cho trẻ em chứa chất Phthalates gây ảnh hưởng đến gan, thận; những ly cốc, chén bát thủy tinh chứa cadimi - yếu tố chính gây ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú; đến các loại thực phẩm thông dụng có chứa chất độc như sữa bột nhiễm chất melanine gây suy thận, ớt bột chứa chất Rhodamine B, một loại phẩm màu công nghiệp có khả năng gây ngộ độc và ung thư, rồi trái cây chứa chất bảo quản độc hại có khả năng gây đột biến gien vv; rồi cả vải vóc, quần áo và hầu như hết thảy những gì có xuất xứ từ Trung Quốc, dường như đều có nguy cơ gây hại cho sức khỏe cho người Việt Nam.

Dường như mọi việc đã được sắp sẵn cho Việt Nam vào vai diễn viên chính trong vở kịch bi thảm mang tên “Chết dưới tay Trung Quốc”. Hệt như lời cảnh báo cho toàn thế giới của hai tác giả Peter Narvarro và Greg Autry trong cuốn sách cùng tên vừa ra mắt công chúng tại Mỹ vào đầu tháng 6 này.

Cuốn sách dài hơn 300 trang đang làm xôn xao dư luận thế giới nói trên dù chưa được đề cập trên các phương tiện truyền thông chính thức tại Việt Nam, nhưng đã nhanh chóng lan truyền rộng rãi trong giới trí thức. Gõ cụm từ tiếng Việt “chết dưới tay Trung Quốc” vào google search, ta nhận được trên 60,000 đường dẫn đến các bài giới thiệu và thảo luận bằng tiếng Việt về cuốn sách này. Từ đâu chẳng rõ, bản mềm bằng tiếng Anh của cuốn sách đã được đưa lên mạng. Địa chỉ truy cập của cuốn sách này được các blogger Việt giới thiệu với nhau để có thể tải về đọc, chỉ vài ngày sau khi cuốn sách ra mắt độc giả.

Viết về cuốn sách này, tờ báo mạng Petrotimes của Việt Nam ngày Thứ Sáu 16/6/2011 đã đăng bài một bài giới thiệu khá đầy đủ của tác giả Lê Đức, với một cái tựa gây “shock”: “Mỹ sẽ ‘chết dưới tay Trung Quốc’?”. Mục đích của cái tựa trên có lẽ là nhằm thu hút sự chú ý của độc giả, nhưng cũng có thể là để lách hệ thống kiểm duyệt báo chí gắt gao – một lời giải thích xem chừng hợp lý hơn trong tình trạng kiểm soát thông tin chặt chẽ hiện nay tại Việt Nam.

Bất chấp cái tựa có vẻ ca ngợi sức mạnh của Trung Quốc và chế diễu Mỹ, văn phong trong bài viết của Lê Đức lộ rõ vẻ thiếu thiện cảm với Trung Quốc ngay từ những giòng đầu tiên: “Giữa lúc những hành động được xem là bất thường của Trung Quốc (TQ) ở biển Đông gần đây làm cho nhiều người cảm thấy hoài nghi về tuyên bố "hòa bình quật khởi" của Bắc Kinh …”. Thái độ chống Trung Quốc càng thể hiện rõ hơn trong bài qua các từ ngữ như “cạnh tranh bất chính”, “con buôn thủ lợi”, “ngược đãi công nhân, biến họ thành lao nô”.

Một vài bạn đọc cho biết, bài viết của Lê Đức có những ý tưởng, chi tiết và cả từ ngữ mang đậm ảnh hưởng của loạt phóng sự của phóng viên Hà Giang trên tờ Người Việt viết về buổi ra mắt cuốn sách này tại Mỹ.
Tờ Người Việt được xem là tờ báo tiếng Việt lớn nhất bên ngoài Việt Nam. Trang mạng của tờ báo này cũng thường được những độc giả  trong nước tìm đọc, mặc dù để vào trang này phải vượt qua tường lửa. Loạt bài của Hà Giang rõ ràng đã làm cho dư luận Việt Nam chú ý, vì nó được khá nhiều blogger Việt chia sẻ lại, ví dụ như Ngoclinhvugia’s Blog đã đưa bài này lên vào ngày 11/6/2011 (giờ Việt Nam), chỉ 2 ngày sau khi bài viết của Hà Giang được công bố.

“Mỹ sẽ ‘chết dưới tay Trung Quốc’?”, tựa bài viết nói trên của Lê Đức cũng là tên của một đề tài thảo luận sôi nổi trên trang “Web trẻ thơ”  (webtretho.com), một trang web vốn dành cho các bà mẹ thảo luận về việc nuôi dạy con cái. Tương tự như các cộng đồng mạng khác, không khí chống Trung Quốc tràn ngập diễn đàn với này những nhận xét khá nóng, và thỉnh thoảng lại còn có đưa ra những lời hô hào, kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc. Thật trùng hợp, tẩy chay hàng Trung Quốc cũng là một biện pháp quan trọng để khỏi chết dưới tay Trung Quốc mà hai tác giả Narvarro và Autry đã đưa ra trong chương kết luận của cuốn sách.

Tẩy chay hàng Trung Quốc còn là lời kêu gọi gần đây của cộng đồng mạng Việt Nam như một cách biểu thị lòng yêu nước mà ai cũng có thể thực hiện, không sợ chính quyền làm khó dễ như đi biểu tình. Trang Đọt chuối non (dotchuoinon.com), một trang mạng với phương châm “tư duy tích cực” do các nhà văn, nhà báo, nhà giáo và sinh viên Việt Nam lập ra với mục đích xây dựng xã hội, ngày 16/6/2011 đã đưa lên bài hiệu triệu “Người Việt quyết tẩy chay hàng Trung Quốc”  để đáp trả lại “những chiêu bài có chủ ý của chính quyền Trung Quốc [ nhằm]  thâu tóm các  vùng biển của Việt Nam và đất nước Việt Nam sau này.”. Bài hiệu triệu trên cũng nêu rõ “mọi người dân Việt đều bức xúc, căm phẫn và hiểu rõ hành vi thâm độc này”, và nhắc rằng “Dân tộc Việt Nam có tinh thần chống Tàu đã mấy ngàn năm trước.”

Trong đoạn kết (epilogue) của cuốn “Chết dưới tay Trung Quốc”, các tác giả của cuốn sách đã nhắc lại bài học lịch sử cay đắng của nước Mỹ trong mối quan hệ với các nước  trong thế kỷ trước, khi ngây thơ tin tưởng vào khả năng trỗi dậy hòa bình của các chế độ toàn trị, lúc ấy là chế độ Đức quốc xã và Liên Xô cũ. Bài học lịch sử đó đang được lập lại trong mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay. Thông điệp của tác giả: Không bao giờ được tin tưởng và làm bạn với những chế độ độc tài toàn trị. Cần luôn luôn cảnh giác nếu không muốn bị lừa để đến nỗi phải đứng trước nguy cơ chết dưới tay chúng.

Thông điệp về một Trung Quốc luôn cần phải cảnh giác có lẽ không dân tộc nào hiểu rõ hơn Việt Nam với bốn ngàn năm làm láng giềng của anh chàng bạn to xác xấu tính này. Có lẽ đó chính là lý do tại sao dù nhỏ hơn, nhưng Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục trước một nước láng giềng vĩ đại, hùng cường hơn mình rất nhiều và luôn có âm mưu ngàn đời xâm chiếm, khuất phục đất nước mình. Trước đây như thế nào thì bây giờ vẫn thế, và cả ngàn đời sau cũng vẫn mãi như thế.

Cho dù ở thời đại nào và chế độ nào, người Việt Nam vẫn sẽ không bao giờ để cho mình phải chết dưới tay Trung Quốc.
Ngày 18/6/2011
V.T.P.A